Những điểm mới trong các văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ XII

Thứ tư - 20/07/2016 21:56
 
 
 CHUYÊN ĐỀ I
NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI VÀ MỚI TRONG BÁO CÁO CHÍNH TRỊ
ĐẠI HỘI XII CỦA ĐẢNG
I- NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG CHỦ ĐỀ VÀ KẾT CẤU BÁO CÁO CHÍNH TRỊ
1- Về chủ đề Đại hội XII.
Chủ đề Đại hội thể hiện mục tiêu, trọng tâm xuyên suốt trong nhiệm kỳ và có ý nghĩa quy tụ sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Và chủ đề Đại hội cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị.
Cách tiếp cận trong xác định chủ đề của Đại hội XII là đi từ một số thành tố quan trọng gắn với những yêu cầu cơ bản và sát với những vấn đề bức xúc được đặt ra từ thực tiễn cho nhiệm kỳ này.
Xuất phát tư yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Đại hội đã thảo luận và quyết định chủ đề của Đại hội XII là: "Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng  hiện đại".
Như vậy, chủ đề Đại hội XII gồm 5 thành tố, trong đó bổ sung, hoàn thiện 4 thành tố đã nêu tại Đại hội XI[1] và thêm một thành tố mới:
(1) Về Đảng: Thay mệnh đề "tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bằng "tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh" với hàm ý: sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là cơ sở để nâng cao năng lực lãnh đạo và chiến đấu của Đảng. Đây cũng là vấn đề quan trọng, bức xúc đang đặt ra được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân đặc biệt quan tâm.
(2) Về sức mạnh chính trị: Đồng thời với việc giữ mệnh đề "phát huy sức mạnh toàn dân tộc", Báo cáo chính trị Đại hội XII bổ sung mệnh đề "dân chủ xã hội chủ nghĩa". Sự bổ sung này thể hiện nhận thức sâu sắc của Đảng ta về vai trò quan trọng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta; vừa là mục tiêu, vừa là động lực to lớn; là nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta.
(3) Về thành tố đổi mới: Bổ sung cụm từ "đồng bộ" sau cụm từ "đẩy mạnh toàn diện" với hàm ý trong những năm tới vừa phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới các mặt, các lĩnh vực, đồng thời phải chú trọng tính đồng bộ và mối quan hệ mật thiết giữa các mặt, các lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước: Đổi mới về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ... Trong đó, đổi mới chính trị trọng tâm là đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới cơ chế, chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới tác phong, lề lối lâm việc, cải cách hành chính, giảm thủ tục phiền hà, nâng cao đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp. Không thay đổi mục tiêu lý tưởng, không thay đổi đường lối chính trị. Đó là Vấn đề có tính nguyên tắc, quy tụ và tạo thành sức mạnh đoàn kết, thống nhất rất cao trong Đảng ta, không như các thế lực thù địch xuyên tạc "trong Đảng" có "phe bảo thủ" và "phe cấp tiến".
(4) Về mục tiêu phát triển đất nước: Điều chỉnh mục tiêu được xác định trong chủ đề Đại hội XI "tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại" thành mục tiêu "phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại" cho phù hợp với thực tế là đến năm 2020 nước ta chưa thể cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đồng thời khẳng định mục tiêu này phải được tiếp tục phấn đấu quyết liệt để hoàn thành sớm nhất sau năm 2020.
(5) Bổ sung thành tố: "bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định". Thành tố này thể hiện quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong bối cảnh tình hình khu vực, quốc tế có nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta; đồng thời, phải tỉnh táo, sáng suốt giữ vững hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
=> Nhìn tổng thể thì chủ đề Đại hội XII thể hiện bước tiến mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng ta, vừa đáp ứng những yêu cầu khách quan của thực tiễn, vừa nhận thức và định hướng giải quyết đúng đắn những mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển của cách mạng nước ta, đặc biệt là quan hệ giữa ổn định - đổi mới - phát triển, giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2- Về kết cấu của Báo cáo chính trị:
2.1- Trước đây, Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng thường kết cấu thành hai phần lớn: Phần đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ và phần xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ tới. Những đại hội gần đây, Báo cáo chính trị đổi mới cách kết cấu, trình bày theo các nội dung lớn, các lĩnh vực cơ bản: Báo cáo chính trị trình Đại hội IX kết cấu thành 10 nội dung; Báo cáo Đại hội X có 12 nội dung; Báo cáo Đại hội XI kết cấu thành 12 nội dung.
2.2- Kế thừa kinh nghiệm xây dựng Báo cáo chính trị trình các đại hội gần đây, Báo cáo chính trị Đại hội XII được kết cấu theo 15 vấn đề để trình bày sâu, có hệ thống hơn và tạo điều kiện thuận lợi trong nghiên cứu, quán triệt. Phương án kết cấu này được đa số Trung ương khoá XI tán thành và được Đại hội XII nhất trí cao:
(1) Vấn đề I: Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và nhìn lại 30 năm đổi mới.
(2) Vấn đề II: Mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020.
(3) Từ vấn đề III đến vấn đề XV, Báo cáo đi sâu đánh giá tình hình và xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội; bảo vệ tài nguyên, môi trường; tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng.
II- VỀ ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI (2011-2015) VÀ NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986-2016)
1- Về đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI.
1.1- Về đánh giá tình hình: Trong quá trình thảo luận, có ý kiến đề nghị đánh giá 5 năm qua đạt "thành tựu to lớn"; có ý kiến đánh giá đạt "kết quả bước đầu"; có ý kiến đánh giá đạt "những thành quả quan trọng".
Trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật một cách toàn diện, Đại hội XII của Đảng nhận định: "nhìn tổng quát, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng".
=> Đánh giá như vậy là phù hợp, đúng mức, phản ánh được cả những nỗ lực, cố gắng của chúng ta trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước, cũng như cả những yếu kém, khuyết điểm cần được khắc phục.
Báo cáo chính trị đã nêu đánh giá tổng quát những thành quả quan trọng đạt được và những hạn chế, khuyết điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
1.2- Những thành quả quan trọng nổi bật: ( có 8 thành quả)
(1) Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên.
(2) Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát[2]; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước[3].
(3) Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện[4]. Bảo vệ tài nguyên, môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu có những chuyển biến tích cực.
(4) Chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
(5) Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng[5], có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.
(6) Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy.
(7) Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng, nhất là việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đạt những kết quả bước đầu quan trọng.
(8) Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, hiệu lực và hiệu quả được nâng lên. Đã thể chế hoá kịp thời Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), xây dựng, ban hành Hiến pháp năm 2013 và nhiều bộ luật, luật trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII.
=> Những thành quả đạt được 5 năm qua có nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, giải quyết kịp thời, có kết quả nhiều vấn đề mới phát sinh; sự đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan dân cử; sự quản lý, điều hành năng động, quyết liệt trên nhiều lĩnh vực của Chính phủ, chính quyền các cấp; sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng đã đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3- Hạn chế, yếu kém chủ yếu: ( có 8 hạn chế, yếu kém)
(1) Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch[6] (10/26 chỉ tiêu không đạt); nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được[7].
(2) Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao[8]. Sản xuất kinh doanh còn gặp rất nhiều khó khăn. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra[9]; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
(3) Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển; cơ cấu nguồn nhân lực mất cân đối, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ tiếp tục là những yếu tố cản trở sự phát triển. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm.
(4) Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y tế chậm được khắc phục. Quản lý và sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường còn bất cập.
(5) Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn.
(6) Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng.
(7) Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm. Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm. Công tác dự báo, hoạch định và lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất cập.
(8) Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.
=> Những hạn chế, khuyết điểm nói trên có nguyên nhân khách quan là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những diễn biến rất phức tạp của tình hình thế giới và khu vực; tình hình căng thẳng trên Biển Đông; sự chống phá của các thế lực thù địch. Song trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan.
2- Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 - 2016)
2.1- Về đánh giá 30 năm đổi mới:
Trong quá trình thảo luận, có ý kiến đề nghị đánh giá 30 năm đổi mới đạt "thành tựu vĩ đại"; có ý kiến đánh giá ở mức "đạt thành tựu quan trọng bước đầu", vì còn nhiều hạn chế, khuyết điểm...
Đại hội thống nhất đánh giá: "Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững".
Đánh giá như vậy là khách quan, toàn diện, khẳng định những thành tựu to lớn, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém để có phương hướng khắc phục, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên.
2.2- 05 bài học kinh nghiệm:
Từ thực tiễn sinh động qua 30 năm đổi mới, trực tiếp là 10 năm gần đây kế thừa tinh thần 5 bài học qua 20 năm đổi mới, Báo cáo chính trị Đại hội XII đã cơ cấu lại trật tự các bài học, bổ sung và hoàn thiện nội dung từng bài học.
(1) Bài học kiên định và sáng tạo:
Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
(2) Bài học về nhân dân:
Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
(3) Bài học bám sát thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan:
Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
(4) Bài học kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại:
Phải đặt lơi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, kiên định độc lập tự chủ, đồng thời chủ động và tích các hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lơi, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
(5) Bài học về xây dựng Đảng và hệ thống chính tri:
Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
=> Năm bài học 30 năm đổi mới có giá trị định hướng sâu sắc về nhận thức tư tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong những năm tới.
III- VỀ MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM (2016 - 2020)
1- Dự báo tình hình thế giới và đất nước trong 5 năm tới:
1.1- Dự báo tình hình thế giới, khu vực có 06 điểm quan trọng nổi bật là:
(1) Trên thế giới, trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.
(2) Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.
(3) Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thoả hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan chủ nghĩa cương quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế.
(4) Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.
(5) Kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn có nhiều biến động khó lường. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Biến động của giá cả thế giới, sự bất ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế thế giới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để phát triển. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định kinh tế song phương, đa phương thế hệ mới.
(6) Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa lý kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN trở thành Cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài.
1.2- Dự báo tình hình trong nước có 06 điểm quan trọng nổi bật là:
(1) Thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
(2) Năm năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ vượt qua những thách thức lớn trong quá trình hội nhập.
(3) Kinh tế từng bước ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp.
(4) Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ "diễn biến hoà bình" của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hoá xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
(5) Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn.
(6) Tình hình chính trị-xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định.
2- Về tư tưởng chỉ đạo trong Báo cáo chính trị: Có 2 quan điểm chỉ đạo quan trọng:
2.1- Thời kỳ mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hoá, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
 So với Đại hội XI, quan điểm này có 3 điểm mới:
(1) Đại hội XI xác định "phát triển kinh tế là trung tâm", Đại hội XII bổ sung "phát triển kinh tế - xã hội (bao hàm cả môi trường) là trung tâm" với hàm ý phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển xã hội, bảo vệ môi trường tạo thành ba trụ cột của phát triển bền vững.
(2) Đại hội XI xác định "xây dựng văn hoá - nền tảng tinh thần", Đại hội XII bổ sung nhân tố xây dựng con người gắn với xây dựng văn hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và con người là cặp đôi biện chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hoá và thụ hưởng các giá trị, sản phẩm văn hoá.
(3) Đại hội XI, quan điểm về quốc phòng, an ninh được trình bày ở phần quốc phòng, an ninh; Đại hội XII gắn quan điểm này thành một bộ phận hữu cơ trong chỉnh thể quan điểm phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, xây dựng văn hoá, con người và xác định tăng cường quốc phông, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
2.2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy; vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo chính xác và kịp thời có chủ trương, chính sách xử lý hiệu quả những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn; giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta. Đó là quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ...
Quan điểm chỉ đạo này có 3 điểm mới:
(1) Bổ sung và điều chỉnh nhận thức về các mối quan hệ lớn trong quá trình đổi mới, phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định 8 quan hệ lớn, trong đó có quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII bổ sung cặp quan hệ giữa nhà nước và thị trường, đồng thời điều chỉnh quan hệ kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa thành quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
(2) Khẳng định các quan hệ lớn là sự phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở nước ta.
 (3) Làm rõ hơn quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, đặt tổng kết thực tiễn lên trước nghiên cứu lý luận với hàm ý tổng kết thực tiễn phải đi trước một bước, phải là công việc có ý nghĩa nền tảng của nghiên cứu lý luận.
3- Về mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới
3.1- Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: "Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị  vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín cửa Việt Nam trong khu vực và trên thế giới".
Mục tiêu tổng quát này định hướng cho việc xác định 12 nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm tới và các chỉ tiêu chủ yếu phải đạt được.
- 12 nhiệm vụ tổng quát đó là:
(1) Nhiệm vụ tổng quát về phát triển kinh tế.
(2) Nhiệm vụ tổng quát về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
(3) Nhiệm vụ tổng quát về đổi mới giáo dục - đào tạo, phát triển khoa học - công nghệ.
(4) Nhiệm vụ tổng quát về xây dựng văn hoá, con người.
(5) Nhiệm vụ tổng quát về quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an sinh xã hội.
(6) Nhiệm vụ tổng quát về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.
(7) Nhiệm vụ tổng quát về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc
(8) Nhiệm vụ tổng quát về đối ngoại và hội nhập quốc tế.
 (9) Nhiệm vụ tổng quát về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
(10) Nhiệm vụ tổng quát về tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
(11) Nhiệm vụ tổng quát về xây dựng Đảng.
(12) Nhiệm vụ tổng quát về quán triệt và xử lý tốt các mối quan hệ lớn.
- Các chỉ tiêu chủ yếu trong 5 năm tới là:
(1) Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng lãnh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVIII đề ra chỉ tiêu GRDP bình quân đầu người  70-75 triệu đồng => Phù hợp với chỉ tiêu chung của cả nước.
Đại hội Đảngr bộ huyện Quỳnh Lưu lần thứ XXVII đề ra chỉ tiêu GRDP bình quân đầu người 65-70 triệu đồng;
(2) Về xã hội: Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%; tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
Nghệ An: Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo mỗi năm giảm 2-3%.
Quỳnh Lưu:  Phấn đấu giảm nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
(3) Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh; tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
Nghệ An: Phấn đấu nâng độ che phủ rừng đạt 57%, tức là cao hơn bình quân của cả nước.
IV- VỀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG, CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC; HOÀN THIỆN THỂ CHẾ, PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1- Về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
1.1- Những kết quả quan trọng đạt được:
(1) Mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng đã bước đầu có sự chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; đã hình thành những mô hình mới và cách làm mới, sáng tạo. Với việc cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là trên một số lĩnh vực trọng tâm, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế có bước cải thiện; bảo đảm hài hoà hơn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
(2) Hiệu quả đầu tư xã hội, đầu tư công từng bước được cải thiện, tình trạng đầu tư dàn trải bước đầu được hạn chế. Hệ thống các tổ chức tài chính tín dụng được cơ cấu lại một bước, không để xảy ra tình trạng đổ vỡ, mất an toàn hệ thống. Doanh nghiệp nhà nước đang được sắp xếp, đổi mới theo hướng tập trung vào ngành chính, đẩy mạnh cổ phần hoá, triển khai thực hiện mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại, nâng cao tính công khai, minh bạch và hiệu quả hoạt động.
(3) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiếp tục được đẩy mạnh, đạt một số thành quả trên tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu lao động, đội ngũ doanh nhân, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đô thị hoá. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế.
1.2- Những hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) Nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng. Năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế còn thấp[10]. Chưa phát huy được lợi thế so sánh và tận dụng các cam kết hội nhập quốc tế để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững.
(2) Nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, nợ công tăng nhanh[11]. Tình trạng đầu tư công dàn trải, thất thoát, lãng phí chậm được khắc phục.
(3) Việc xây dựng và thực hiện đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, kết quả còn hạn chế[12].
(4) Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
(5) Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ chưa có định hướng chiến lược rõ ràng, hiệu quả thấp.
 (6) Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu và thiếu tính kết nối.
(7) Phát triển đô thị thiếu đồng bộ, chất lượng thấp.
(8) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm.
(9) Các ngành dịch vụ chất lượng cao chậm phát triển.
(10) Kinh tế biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước.
(11) Sự phát triển giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng còn thiếu liên kết và phối hợp; không gian kinh tế còn bị chia cắt bởi địa giới hành chính.
(12) Chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương ứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
1.3- Định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới:
(1) Kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở  nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững (hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc), bao gồm 17 mục tiêu[13].
(2) Giải quyết hài hoà giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
1.4- Nguồn lực tăng trưởng trong thời gian tới:
(1) Tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước.
(2) Phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông nghiệp.
1.5- Động lực và điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới:
(1) Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập khẩu công nghệ mới.
(2) Thực hiện phương thức quản lý, quản trị hiện đại.
(3) Phát huy tiềm năng con người và khuyến khích tinh thần sản xuất kinh doanh, tinh thần khởi nghiệp của mọi người để chủ động khai thác triệt để lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị quốc gia và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
1.6- Định hướng cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trong thời gian tới: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng:
(1) Cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công.
(2) Cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước.
(3) Cơ cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công.
(4) Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước[14].
(5) Cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
=> Mục tiêu 5 năm tới: Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả Đề án tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế và cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực. Cụ thể là cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh cơ cấu lại công nghiệp, tạo nền tảng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ; phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo; phát triển các vùng và khu kinh tế, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng; đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp.
1.7- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại:
(1) Xác định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chú trọng những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (GDP bình quân đầu người, tỉ trọng giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, tỉ trọng nông nghiệp, tỉ lệ đô thị hoá, điện bình quân đầu người...); những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội (chỉ số phát triển con người, tuổi thọ bình quân, chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, số bác sĩ trên 1 vạn dân, tỉ lệ lao động qua đào tạo...); và những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về môi trường (tỉ lệ dân số sử dụng nước sạch, độ che phủ rừng, tỉ lệ giảm mức phát thải khí nhà kính...).
(2) Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; huy động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển.
2- Về hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1- Những kết quả quan trọng đạt được:
(1) Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế được nâng lên. Môi trường đâu tư và kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông thoáng hơn.
(2) Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã từng bước phù hợp với cơ chế thị trường; hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
(3) Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực đóng góp xây dựng Cộng đồng ASEAN; hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO; đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương thế hệ mới.
2.2- Những hạn chế, khuyết điểm chủ yếu:
(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược.
(2) Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự thông thoáng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường.
(3) Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Hầu hết doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ, thiếu liên kết, khả năng ứng phó với các rủi ro yếu, nhiều doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng hoạt động. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, khai thác tài nguyên và còn hạn chế trong chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến.
(4) Trình độ phát triển của các loại thị trường thấp, vận hành chưa thật sự đồng bộ, thông suốt, trong đó, thị trường lao động và thị trường dịch vụ công cơ cấu chưa hợp lý; thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường khoa học - công nghệ phát triển chậm.
(5) Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm; Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao cấp, xin - cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách. Sự tham gia giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước còn hạn chế.
(6) Việc tự do hoá thương mại, đầu tư trong một số thị trường, lĩnh vực chưa sát hợp với thực tế phát triển của nền kinh tế. Chậm xây dựng hàng rào kỹ thuật cần thiết và hệ thống quản lý thị trường đủ năng lực và hiệu quả để bảo vệ thị trường trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, ngăn chặn gian lận thương mại, hàng giả, hàng lậu và hàng độc hại.
2.3- Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
* Thứ nhất, trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã có quyết sách lớn, quan trọng là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua 6 kỳ Đại hội, Đảng ta đã không ngừng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, từng bước hình thành và hoàn thiện nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội XII đánh dấu bước tiến về nhận thức của Đảng ta về vấn đề này. Báo cáo chính trị Đại hội XII nêu rõ:
(1) "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
(2) Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội".
* Thứ hai, so với nhận thức trước đây, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được trình bày trong Báo cáo chính trị Đại hội XII có những điểm mới nổi bật:
(1) Xác định rõ hơn mối quan hệ giữa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
- Về vấn đề này, Báo cáo chính trị Đại hội XI nêu: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa "là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội".
- Báo cáo chính trị Đại hội XII nhận thức về vấn đề này cụ thể, sát hợp và biện chứng hơn:
-> Nhấn mạnh yêu cầu vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường theo tinh thần tôn trọng các quy luật khách quan.
-> Xác định yêu cầu có tính nguyên tắc là bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
=> Như vậy, theo quan niệm của Đại hội XII, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một kiểu kinh tế thị trường (như kinh tế thị trường tự do của Mỹ, Tây Âu; kinh tế thị trường xã hội của Bắc Âu); trong đó, định hướng xã hội chủ nghĩa là thuộc tính của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sự thống nhất đó mang tính lịch sử cụ thể, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước ta qua từng giai đoạn.
(2) Điều chỉnh và làm rõ hơn những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
- Xác định rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Đây là nhận thức mới với hàm ý: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bộ phận của kinh tế thị trường quốc tế, phải phát triển theo hướng hiện đại để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
- Xác định rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh theo pháp luật. Khẳng định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng thời khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân, xem đó là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đây là một nhận thức mới, phù hợp với yêu cầu và điều kiện phát triển của nước ta hiện nay. Nhận thức này xuất phát từ thực tiễn kinh tế tư nhân Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, hiện tiêm năng còn rất lớn, cần phát huy mạnh mẽ để góp phần tạo sinh khí mới, sức mạnh mới của kinh tế đất nước.
(3) Xác định rõ hơn mối quan hệ giữa thị trường và nhà nước - mối quan hệ rất cơ bản mà bất kỳ quốc gia nào đi vào kinh tế thị trường cũng đều phải quan tâm giải quyết.
- Về quan hệ này, trước đây chưa thấy hết vai trò của thị trường.
Báo cáo chính trị Đại hội XI nêu: "Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh, bền vững..."; "Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế (...), định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế,  khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường .... ".
- Trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm thành công và thất bại của các nước phát triển kinh tế thị trường, tổng kết 30 năm xây dựng, phát  triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Báo cáo chính trị Đại hội XII phân định rõ vai trò của thị trường và vai trò của Nhà nước.
Về vai trò của thị trường, Báo cáo nhấn mạnh:
-> Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
-> Thị trường là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất.
-> Các chiến lược, quy hoạch kế hoạch đều phải phù hợp với quy luật thị trường
 Về vai trò Nhà nước, Báo cáo xác định rõ Nhà nước:
-> Định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh.
-> Định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, bảo vệ môi trường.
-> Phân bổ các nguồn lực nhà nước theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.
-> Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
-> Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
(4) Làm sáng tỏ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường Việt Nam: Báo cáo chính trị Đại hội XII nhấn mạnh 5 điểm thể hiện định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường Việt Nam:
- Có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
- Có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng nước, từng chính sách phát triển.
=> Chúng ta bước vào kinh tế thị trường với khoảng thời gian chưa lâu, lại hội nhập sâu vào nền kinh tế thị trường thế giới đang có nhiều biến đổi, do vậy nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không thể hoàn thiện một sớm một chiều. Báo cáo chính trị Đại hội XII nhấn mạnh, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nêu trên có giá trị định hướng lâu dài, cần tiếp tục được cụ thể hoá, thể chế hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.4- Về xác định vai trò của "kinh tế nhà nước" và "doanh nghiệp nhà nước": Về vấn đề này, trong khi khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, Báo cáo xác định "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo". Kinh tế nhà nước gồm doanh nghiệp nhà nước và các nguồn lực nhà nước:
(1) Doanh nghiệp nhà nước, cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình bẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
(2) Các nguồn lực nhà nước (tài nguyên, đất đai, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,...), cùng với các công cụ, cơ chế, chính sách được Nhà nước sử dụng để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong thực tiễn nước ta khi các nguồn lực của Nhà nước cùng với các cơ chế, chính sách tập trung vào lĩnh vực, địa bàn nào thì dẫn dắt, thúc đẩy sự phát triển ở địa bàn, lĩnh vực đó.
=> Với ý nghĩa quan trọng như vậy, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận của kinh tế nhà nước, không giữ vai trò chủ đạo, không đồng nghĩa với kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật  với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, và được cơ cấu lại như trong Báo cáo chính trị đã nêu rõ: "Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư".
V- VỀ CÁC VẤN ĐỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO, KHOA HỌC - CÔNG  NGHỆ, VĂN HOÁ, XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG
Những nội dung về các vấn đề này được thể hiện trong Báo cáo chính trị ở các mục V, VI, VII, VIII, IX. Những nội dung được thống nhất đưa vào Báo cáo chính trị về các vấn đề này là kết quả của sự nghiên cứu, chắt lọc các nghị quyết Trung ương khoá XI, khái quát ở tầm văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, sát với yêu cầu cấp thiết của thực tiễn và tính khả thi trong 5 năm của nhiệm kỳ. Trong đó có nhiều điểm mới:
1- Về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực
1.1- 06 kết quả quan trọng đạt được:
(1) Các nghị quyết của Đảng về giáo dục, đào tạo được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đạt được những thành quả nhất định.
(2) Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp từ cơ sở đến đại học, dạy nghề được tổ chức lại một bước. Quan tâm đầu tư cho giáo dục, đào tạo.
(3) Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện và có bước hiện đại hoá.
(4) Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng.
(5) Xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh.
(6) Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến. Chủ trương đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người đã được các cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện và nhận được sự ủng hộ của toàn xã hội.
1.2- 06 hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) Giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động lực phát triển.
(2) Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp.
(3) Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc.
(4) Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Quản lý giáo dục và đào tạo có mặt còn yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả.
(5) Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp.
(6) Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
1.3- Tư tưởng chỉ đạo và mục tiêu:
(1) Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
(2) Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động.
(3) Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
1.4- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn (04 nhiệm vụ):
(1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
(2) Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo.
(3) Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo.
(4) Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.
2- Về phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
2.1- 04 kết quả quan trọng đạt được:
(1) Khoa học, công nghệ đã có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Khoa học xã hội và nhân văn góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hoá Việt Nam. Lĩnh vực khoa học tự nhiên, các ngành khoa học cơ bản, khoa học và công nghệ liên ngành, khoa học mới tiếp tục phát triển, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Một số ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn đã có đóng góp tích cực phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh.
(2) Hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ có chuyển biến; tiềm lực khoa học, công nghệ được nâng lên.
(3) Quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ có đổi mới. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ có bước tiến bộ.
(4) Thị trường khoa học, công nghệ đã hình thành và bước đầu phát huy tác dụng.
2.2- 05 hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) Khoa học, công nghệ chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.
(2) Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học, công nghệ chưa được chú trọng.
(3) Không hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao.
(4) Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm.
(5) Công tác quy hoạch, phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược hiệu quả thấp.
2.3- Tư tưởng chỉ đạo và mục tiêu:
(1) Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
(2) Phấn đấu đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới.
2.4- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn:
(1) Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Các ngành khoa học và công nghệ có nhiệm vụ cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và triển khai đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật. Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều phải xây dựng trên những cơ sở khoa học vững chắc. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ.
(2) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Tăng cường liên kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp; mở rộng hình thức liên kết giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông. Khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đổi mới công nghệ.
(3) Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.
(4) Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
3- Về xây dựng, phát triển văn hoá, con người
3.1- Kết quả quan trọng đạt được (có 5 kết quả)
(1) Thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế có bước chuyển biến quan trọng.
(2) Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hoá, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây dựng môi trường văn hoá với xây dựng con người; bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên.
(3) Hệ thống thể chế và thiết chế văn hoá từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa; nhiều di sản văn hoá được bảo tồn, tôn tạo. Xã hội hoá hoạt động văn hoá ngày càng mở rộng. Văn học, nghệ thuật có bước phát triển. Truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng, phương tiện kỹ thuật và ảnh hưởng xã hội.
(4) Đời sống văn hoá của nhân dân được cải thiện. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng. Việc xây dựng môi trường văn hoá đã được chú trọng hơn.
(5) Công tác quản lý nhà nước về văn hoá được tăng cường. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hoá có nhiều khởi sắc.
3.2- 07 hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) So với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hoá chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hoá lành mạnh.
(2) Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Đời sống văn hoá tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn.
(3) Môi trường văn hoá còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng.
(4) Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá đạt hiệu quả chưa cao.
(5) Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hoá, xa rời tôn chỉ, mục đích, chưa làm tốt chức năng định hướng dư luận và xây dựng con người.
(6) Hệ thống thiết chế văn hoá và cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động văn hoá còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp.
(7) Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hoá nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hoá của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
3.3- Mục tiêu:
(1) Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
(2) Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển.
3.4- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn:
(1) Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hoá dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn,... Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam.
(2) Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát  triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hoá. Làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản. Phát triển công nghiệp văn hoá đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hoá. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
(3) Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hoá.
4- Về quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
4.1- 05 kết quả quan trọng đạt được:
(1) Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhận thức của toàn xã hội về tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được nâng lên.
(2) Hệ thống luật pháp và chính sách được bổ sung nhằm điều tiết các quan hệ xã hội. Ngân sách nhà nước dành cho các chương trình quốc gia nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gia tăng hằng năm.
(3) Việt Nam đã hoàn thành hầu hết và cơ bản các mục tiêu Thiên niên kỷ. Đặc biệt là đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
(4) Quan tâm thực hiện chính sách chăm sóc người có công. Đã thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách đối với người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, giảm nghèo bền vững, chăm sóc sức khoẻ cho người dân đồng thời tạo điều kiện để người dân chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro trong đời sống, kinh tế, xã hội và môi trường.
(5) Đời sống và thu nhập của người dân không ngừng được nâng lên.
4.2- 05 hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm.
(2) Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ.
(3) Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hoà giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng.
(4) Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hoà, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hoá giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người.
(5) Nhiều lĩnh vực của phát triển bền vững chưa được nghiên cứu đầy đủ. Quản lý phát triển xã hội chưa xác định rõ định hướng và những nhiệm vụ mang tính tổng thể, đồng bộ, liên vùng, liên ngành, liên lĩnh vực, còn bị chia cắt theo địa giới hành chính, lĩnh vực quản lý.
4.3- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn về quản lý phát triển xã hội (3):
(1) Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc[15].
(2) Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; có các giải pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội.
(3) Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hoá giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững,...
4.4- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn về thục hiện tiến bộ và công bằng xã hội:
(1) Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên.
(2) Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động. Tạo cơ hội để mọi ngươi có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động.
(3) Bảo đảm an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,...
(5) Coi trọng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc.
5- Về quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu
5.1- 04 kết quả quan trọng đạt được:
(1) Nhận thức về tầm quan trọng của tải nguyên, khai thác, quản lý và sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu được nâng lên.
(2) Các hoạt động trong lĩnh vực này đã thu được một số kết quả bước đầu quan trọng.
(3) Nhà nước và các cơ quan quản lý đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách quản lý và tăng cường đầu tư cho các lĩnh vực này. Đã thành lập được các cơ quan nghiên cứu và dự báo, quản lý rủi ro.
(4) Hợp tác quốc tế về quản lý tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai được đẩy mạnh; đã tham gia nhiều tổ chức của thế giới về các lĩnh vực này.
5.2- 04 hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) Tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững; một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt.
(2) Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về môi trường do chiến tranh để lại còn chậm. Đa dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, sức khoẻ và đời sống nhân dân.
(3) Chất lượng công tác dự báo và quy hoạch còn nhiều hạn chế, chưa  theo kịp yêu cầu phát triển, chưa bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng; chưa rõ trọng tâm, trọng điểm và nguồn lực thực hiện.
(4) Việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; thiên tai ngày càng bất thường, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản.
5.3- Tư tưởng chỉ đạo và mục tiêu:
(1) Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn.
(2) Tài nguyên là tài sản quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
(3) Chú trọng sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, vật liệu mới.
(4) Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra,...
(5) Đến năm 2020, có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững, kiềm chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh[16], thân thiện với môi trường; về cơ bản, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, tránh thiên tai, giảm mức phát thải khí nhà kính.
5.4- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn về quản lý tài nguyên:
(1) Nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
(2) Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, thực trạng và xu hướng diễn biến của các nguồn tài nguyên quốc gia, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên biển. Từng bước xác định, đánh giá các giá trị, thiết lập tài khoản, hạch toán trong nền kinh tế đối với các loại tài nguyên quốc gia.
(3) Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia. Hạn chế tối đa và tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ qua chế biến sơ; thúc đẩy chế biến sâu,...
5.5- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn về bảo vệ môi trường:
(1) Hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường, tăng cường phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường.
(2) Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự  nhiên. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường ở nông thôn, các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, khu đô thị, làng nghề, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
5.6- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn về phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu:
(1) Chủ động xây dựng, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu[17], phòng, chống thiên tai cho từng giai đoạn.
(2) Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo và ứng phó với thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ.
(3) Đầu tư thích đáng và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế cho các công trình trọng điểm quốc gia, các chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu.
(4) Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng, chống, hạn chế tác động của lũ lụt, hạn hán, sạt lở bãi sông, bãi biển, triều cường, xâm nhập mặn.
(5) Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm mức phát thải khí nhà kính.
VI- VỀ TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI; NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1- Về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới
1.2- 07 kết quả quan trọng đạt được:
(1) Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
(2) Nhận thức về mục tiêu, yêu câu bảo vệ Tổ quốc; về vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát triển.
(3) Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
(4) Chủ trương, giải pháp trong chiến lược quốc phòng, quân sự, chiến lược an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện.
(5) Thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố, nhất là trên các địa bàn chiến lược quan trọng; sức mạnh về mọi mặt của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được tăng cường.
(6) Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
(7) Đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hoà bình", hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe doạ an ninh phi truyền thống, kiềm chế được tốc độ gia tăng tội phạm.
1.2- 03 hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) Nhận thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ  Tổ quốc trong tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc.
(2) Kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên một số lĩnh vực, địa bàn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh của một số cấp uỷ chính quyền có nơi, có lúc chưa kiên quyết, triệt để; còn thiếu những giải pháp mang tính chiến lược, tổng thể.
(3) Cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa hoàn thiện.
1.3- Mục tiêu và tư tưởng chỉ đạo:
(1) Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
(2) Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt.
(3) Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi vừa mang tính định hướng cho phát triển, vừa là nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để bảo đảm củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Điều này xuất phát từ quan điểm sử dụng sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh và lực lượng bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, của tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt[18].
1.4- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn:
(1) Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc[19]. Xây dựng "thế trận lòng dân", tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân.
(2) Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến.
(3) Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
(3) Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" từ bên trong và cả những tiêu cực nảy sinh bởi sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế.
(5) Kiên quyết giữ vững ổn định chính trị, ổn định kinh tế - xã hội trong mọi tình huống. Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo.
2- Về nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
2.1- 07 kết quả quan trọng đạt được:
(1) Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian qua, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
(2) Môi trường hoà bình thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững.
(3) Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngây càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố. Đã thiết lập quan hệ đổi tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều đối tác quan trọng.
(4) Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc tăng cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước.
(5) Đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ, hiệu quả, có bước phát triển mới.
(6) Nhận thức đúng về xu thế của thời đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng, Nhà nước đã có định hướng chỉ đạo và các chính sách đúng đắn, kịp thời trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc.
(7) Nhiều chủ trương, giải pháp xử lý các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề Biển Đông, đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân và được dư luận quốc tế ủng hộ.
1.2- 05 hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động và hiệu quả chưa cao.
(2) Chưa có giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
(3) Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình thế giới và khu vực.
(4) Sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương còn thiếu chặt chẽ.
(5) Công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình còn hạn chế.
1.3- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn về nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại (4 định hướng):
(1) Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
(2) Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
(3) Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương[20], chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương.
(4) Chú trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng, thúc đẩy quan hệ với các đối tác lớn, đối tác quan trọng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh. Mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.
1.4- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (3 định hướng):
(1) Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế[21]. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi.
(2) Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc.
(3) Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác.
VII- VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC; PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, ĐẢM BẢO QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN; XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1- Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1- 02 kết quả quan trọng đạt được:
(l) Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức.
(2) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước.
1.2- 05 hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc có nơi chưa phát huy được vai trò, sức mạnh của nhân dân.
(2) Chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có chủ trương phù hợp.
(3) Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hoá, hoặc đã thể chế hoá nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc.
(4) Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp có lúc, có nơi chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở, còn có biểu hiện hành chính hóa, chưa thiết thực, hiệu quả. Chậm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
(5) Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thật sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến để giải quyết kịp thời, có hiệu quả những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
1.3- Tư tưởng chỉ đạo (3):
(1) Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
(2) Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.
(3) Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
1.4- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn (3):
(l) Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; tạo sự đồng thuận xã hội.
(2) Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thân của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân.
(3) Báo Cáo Chính trị đã xác định những định hướng xây dựng các giai tầng trong xã hội; định hướng chính sách dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo.
2- Về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
2.1- 06 kết quả quan trọng đạt được:
(1) Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
(2) Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi. Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội.
(3) Ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân, ý thức về dân chủ trong xã hội được nâng lên.
(4) Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ.
(5) Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau.
(6) Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết.
1.2- 03 hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi.
(2) Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm.
(3) Có lúc có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
1.3- Tư tưởng chỉ đạo (3):
(1) Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
(2) Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến.
(3) Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện.
1.4- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn (4):
(1) Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân. Thể chế hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân.
(2) Thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
(3) Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội.
(4) Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
3- Về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
3.1- 04 kết quả quan trọng đạt được:
(1) Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản. Nhận thức của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên và nhân dân về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có bước phát triển.
(2) Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện.
(3) Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt kết quả tích cực.
(4) Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả quan trọng.
3.2- 07 hạn chế, yếu kém chủ yếu:
(1) Chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
(2) Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế.
(3) Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực thi công vụ còn nhiều yếu kém. Cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính còn phức tạp, phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển.
(4) Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới; hiệu lực, hiệu quả ở nhiều nơi chưa cao.
(5) Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng.
(6) Việc triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
(7) Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng.
3.3- Tư tưởng chỉ đạo (2):
(1) Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn.
(2) Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hoá, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
3.4- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn (5):
(1) Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.
(2) Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương, địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.
(3) Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại.
(4) Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý.
(5) Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
VIII- MỘT SỐ NỘI DUNG MỚI, NỔI BẬT VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
1- 12 kết quả quan trọng đạt được:
(1) Các cấp uỷ, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 một cách bài bản, quyết liệt và đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, suy thoái trong Đảng.
(2) Công tác xây dựng Đảng về chính trị trước tình hình mới tiếp tục được coi trọng.
(3) Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có bước được nâng lên.
(4) Coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên.
(5) Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu, nhiệm vụ mới.
(6) Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, việc phát triển và nâng cao chất lượng đảng viên đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng tập trung chỉ đạo thực hiện.
(7) Nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế, cụ thể hoá bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ hơn.
(8) Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt nhiều kết quả.
(9) Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng được tăng cường, có hiệu lực, hiệu quả hơn.
(10) Đảng và Nhà nước đã thể hiện quyết tâm chính trị trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
(11) Công tác dân vận được quan tâm và có bước đổi mới.
(12) Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới.
=> Với những kết quả quan trọng nêu trên, Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đạt được những kết quả đó là do Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt; đa số cán bộ, đảng viên có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo đức, vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; thu hút sự tham gia của hệ thống chính trị và nhân dân vào việc chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
2- 11 hạn chế, khuyết điểm:
(1) Trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 một số việc chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra (trong tự phê bình và phê bình; tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước).
(2) Dự báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước còn nhiều hạn chế.
(3) Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao.
(4) Việc triển khai thực hiện nội dung các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách của Đảng về rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ, đảng viên chưa thực sự tích cực, đồng bộ, thường xuyên, một số nơi thực hiện chưa nghiêm túc.
(5) Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.
(6) Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp.
(7) Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có mặt còn hạn chế. Chưa nắm và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện nay, trong khi những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có xu hướng diễn biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội.
(8) Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng và đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng.
(9) Công tác dân vận còn nhiều mặt hạn chế. Việc xây dựng, nhất là triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận còn chưa kịp thời, kém hiệu quả.
(10) Nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe doạ sự tồn vong của chế độ.
(11) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn chậm, nhất là việc cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có những nội dung còn lúng túng.
=> Những hạn chế, khuyết điểm trên đây làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
3- Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm:
(1) Do xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là vấn đề mới và khó, phải vừa làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện.
(2) Chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới.
(3) Nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề quan trọng ở tầm quan điểm, chủ trương.
(4) Chưa thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò giám sát, tham gia của nhân dân vào công tác xây dựng Đảng.
(5) Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương về xây dựng Đảng chưa nghiêm, còn thiếu các biện pháp cụ thể, khả thi.
(6) Nhiều cấp uỷ đảng và bí thư cấp uỷ chưa đầu tư đúng mức thời gian, công sức cho công tác xây dựng Đảng. Lãnh đạo, chỉ đạo, kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ thiếu đồng bộ, kiên quyết, hiệu quả thấp.
4- Tư tưởng chỉ đạo:
(1) Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng.
(2) Điểm nổi bật trong Báo cáo chính trị về công tác xây dựng Đảng là khẳng định trong nhiệm kỳ 5 năm tới: Trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. Điều đó thể hiện ý chí, sự quyết tâm trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ phát triển mới.
5- Định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn:
(1) Xây dựng Đảng về chính trị .
(2) Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận.
(3) Tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân cơ hội, thực dụng.
(4) Tiếp tục kiện toàn đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị.
(5) Kiện toàn nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.
(6) Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
(7) Đổi mới nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác kiểm tra giám sát, kỷ luật đảng.
(8) Tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
(9) Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
(l0) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong những định hướng giải pháp nêu trên, nổi bật là 3 vấn đề sau đây:
(1) Nhấn mạnh phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI.
- Phải kiên quyết vì đây là vấn đề vô cùng hệ trọng, liên quan đến vai trò, sức mạnh, uy tín lãnh đạo của Đảng; liên quan đến sự tồn vong của chế độ Đồng thời đây cũng là yêu cầu khách quan, nặng nề, cấp bách của thời kỳ phát triển mới của đất nước, là mong muốn và sự kỳ vọng của nhân dân đối với Đảng ta với tư cách là Đảng duy nhất giữ vai trò lãnh đạo đất nước, dân tộc.
- Phải kiên trì vì đây là vấn đề lớn, phức tạp, nhạy cảm liên quan đến tổ chức, con người; là lĩnh vực còn tồn tại nhiều hạn chế, khuyết điểm kéo dài từ nhiều nhiệm kỳ nhưng chậm được tập trung giải quyết dứt điểm; là lĩnh vực rất nhạy cảm, phức tạp mà các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt.
- Thực tế đó đòi hỏi Trung ương, các cấp uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở phải nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch cùng những giải pháp cụ thể, thiết thực, khả thi để ngăn chặn đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, những biểu hiện tự diễn biến, chuyển hoá trong nội bộ, khắc phục những yếu kém, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ.
(2) Bổ sung, hoàn thiện hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng
 Báo cáo chính trị Đại hội XII kế thừa và làm sâu sắc, hoàn thiện hơn 8 nhiệm vụ cơ bản được trình bày trong Báo cáo chính trị Đại hội XI, đồng thời bổ sung 2 nhiệm vụ:
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
- Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
(3) Đề cao, nhấn mạnh nội dung xây dựng Đảng về đạo đức; học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
- Từ trước đến nay, nói về xây dựng Đảng, các văn kiện của Đảng đều xác định 3 mục tiêu, nội dung cơ bản: xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Vấn đề rèn luyện phẩm chất, đạo đức được xác định là một trong những  nhiệm vụ xây dựng Đảng. Đại hội XII nâng vấn đề xây dựng đạo đức thành một mục tiêu, nội dung cơ bản của xây dựng Đảng, đặt ngang với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Việc bổ sung này là sự tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng xây dựng Đảng của Bác Hồ "Đảng ta là đạo đức, là văn minh"; phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc và mong muốn, đòi hỏi của nhân dân; là tư tưởng chỉ đạo mạnh mẽ nhằm khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
- Tập trung thực hiện mục tiêu "Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức" gắn với tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức lối sống trong Đảng và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, "lợi ích nhóm"; nói không đi đôi với làm...
- Đại hội XII của Đảng chỉ rõ, những năm tới chúng ta cần tiếp tục học tập thực hiện sâu sắc hơn tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh gắn với học tập và làm theo phong cách của Người. Phong cách Hồ Chí Minh là sự phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Người và được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hóa kỳ diệu trong  hoạt động, ứng xử hàng ngày. Đó là phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; là phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, đến nơi, đến chốn; là phong cách ứng xử văn hoá, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; là phong cách nói đi đôi vào lòng người, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm; là phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị. Bao trùm là phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương của một lãnh tụ thiên tài đồng thời là Người Việt Nam đẹp nhất. Chúng ta cần tìm hiểu, học tập sâu sắc, phấn đấu làm theo phong cách Hồ Chí Minh gắn với quán triệt và thực hiện tốt hơn nữa tư tưởng, đạo đức của Người để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ta thật sự là những tấm gương sáng được nhân dân tin tưởng và noi theo.
IX- NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI XII
Báo cáo chính trị nêu sáu nhiệm vụ trọng tâm:
1- Nhiệm vụ về xây dựng Đảng, chú trọng đặc biệt là vấn đề chống suy thoái và xây dựng đội ngũ cán bộ.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
2- Nhiệm vụ xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị.
Hoàn thiện hệ thống chính trị, xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tác phong lề lối làm việc chính là những nội dung của đổi mới chính trị. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải được tiến hành với quyết tâm chính trị cao, kiên quyết, kiên trì, mạnh dạn tổ chức thí điểm, tổng kết rút kinh nghiệm, tiến hành từng bước thận trọng, vững chắc. Đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng; chú trọng cả khâu phòng ngừa và phát hiện, kiên quyết xử lý.
3- Những nhiệm vụ trọng tâm về phát triển kinh tế.
Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
4- Những nhiệm vụ trọng tâm về quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
5- Nhiệm vụ trọng tâm về quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
6- Nhiệm vụ về xây dựng con người.
Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
          
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
CHUYÊN ĐỀ II:
Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
 5 năm 2016-2020
-----
A. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
5 NĂM 2011 - 2015
 
I. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Đại hội Đảng lần thứ XI, trên cơ sở kết quả đạt được của giai đoạn 2006 - 2010 và do chưa lường hết được những khó khăn, thách thức nên nhiều chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội đề ra cho 5 năm 2011 - 2015 là khá cao (Tốc độ tăng trưởng GDP là 7-7,5%).
Ngay sau Đại hội Đảng, tình hình thế giới diễn biến nhanh và rất phức tạp:  Kinh tế phục hồi chậm hơn dự báo. Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt giành ảnh hưởng trong khu vực. Tình hình phức tạp, căng thẳng ở Biển Đông. Ở trong nước, tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho những yếu kém nội tại của nền kinh tế bộc lộ nặng nề hơn.
        Lạm phát tăng cao, kinh tế vĩ mô không ổn định, sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại lớn và yêu cầu bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh ngày càng cao.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã kịp thời điều chỉnh nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, trong đó: Tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý.
        Việc đánh giá tình hình 5 năm cần căn cứ vào bối cảnh và sự điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trên đây.
II. Kết quả đạt được
1. Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
- Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011 xuống còn 0,6% vào năm 2015.
- Mặt bằng lãi suất năm 2015 chỉ còn bằng 40% năm 2011.
- Tỉ giá, thị trường ngoại hối ổn định. Niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng 17,5%/năm.
- Cán cân thương mại được cải thiện;
- Dự trữ ngoại hối cao nhất từ trước đến nay
- Thu ngân sách tăng gần 2 lần so với giai đoạn 2006 - 2010.
- Chi ngân sách được quản lý chặt chẽ hơn, tiết kiệm và ưu tiên cho bảo đảm an sinh xã hội và phát triển con người.
- Nợ công được cơ cấu lại một bước và cơ bản trong giới hạn theo quy định
2. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân trên 5,9%/năm.
- GDP năm 2015 đạt 193,4 tỉ USD, bình quân đầu người khoảng 2.109 USD.
-                 Tăng trưởng khu vực công nghiệp đạt 6,9%/năm.
Khu vực nông nghiệp cơ bản phát triển ổn định, tăng 3,0%/năm.
- Khu vực dịch vụ tăng 6,3%/năm.
- Năng suất lao động tăng bình quân 4,2%/năm, cao hơn giai đoạn trước (3,4%).
- Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả hơn, chỉ số ICOR giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 6,92 (giai đoạn 2006 - 2010 là 6,96).
- Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 29%.
3. Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phát triển nguồn nhân lực đạt những kết quả tích cực
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đạt kết quả quan trọng.
4. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu
- Tập trung tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công.
- Tập trung xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, nhất là ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém;
- Đẩy mạnh tái cơ cấu của doanh nghiệp nhà nước
- Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới chuyển biến tích cực.
- Tái cơ cấu công nghiệp, dịch vụ theo hướng tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế.
5. Văn hoá, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện
-  Hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, nhất là về giảm nghèo. 
- Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng.
- Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên;
- Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đạt kết quả tích cực;
- Có 275 di tích được xếp hạng quốc gia và 10 di sản được UNESCO vinh danh, nâng tổng số di sản được UNESCO vinh danh lên 22. Trong đó, dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
6. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường
- Phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai được chú trọng, đạt nhiều kết quả; năng lực cảnh báo, dự báo được tăng cường, chất lượng có bước được nâng lên; đã giảm 53% số người chết, mất tích và giảm 32% thiệt hại về kinh tế so với 5 năm trước.
- Nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu kết hợp phòng, chống thiên tai được triển khai, tranh thủ được sự hợp tác, hỗ trợ của nhiều đối tác.
7. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính đạt những kết quả tích cực; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chú trọng
- Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện.
-  Kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới chế độ công vụ, công chức; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và cán bộ, công chức.
- Tập trung cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, tạo thuận lợi, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho người dân, doanh nghiệp.
- Tập trung chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm và công khai kết quả xử lý các vụ việc tham nhũng.
8. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững
- Triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các giải pháp phù hợp để bảo vệ chủ quyền quốc gia và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định
9. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực
- Triển khai hiệu quả hoạt động đối ngoại trên các lĩnh vực và Chương trình hành động về hội nhập quốc tế,
- Nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều nước.
- Tích cực triển khai các hiệp định, thoả thuận thương mại đã có và ký kết tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, có độ mở và tiêu chuẩn cao (Hiệp định Đối tác xuyên TBD (TPP), Hiệp định thương mại tự do với EU).
Thực hiện Nghị quyết 22/NQ-BCT của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế.
III. Các hạn chế, yếu kém
1. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc
- Kiểm soát lạm phát và một số cân đối lớn ổn định chưa vững chắc.
- Cân đối ngân sách nhà nước còn khó khăn, vẫn còn thất thu, nợ đọng thuế, cơ cấu chi chưa hợp lý;
- Chi thường xuyên tăng nhanh; một số khoản chi chưa được quản lý chặt chẽ;
- Bội chi ngân sách còn cao, chưa đạt mục tiêu đề ra.
- Nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn;
- Nợ Chính phủ đã vượt giới hạn quy định (50,3% GDP so với quy định không quá 50%);
- Sử dụng vốn vay ở một số dự án kém hiệu quả và còn thất thoát, lãng phí.
2. Kinh tế phục hồi còn chậm, tăng trưởng chưa đạt chỉ tiêu đề ra; chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp
- Tăng trưởng GDP thấp hơn 5 năm trước và chưa đạt chỉ tiêu đề ra.
- Khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực còn lớn.
- Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng còn hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp (hệ số ICOR còn cao).
- Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất là về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ.
3. Thực hiện các đột phá chiến lược và tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt mục tiêu đề ra
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, chưa tạo được đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học công nghệ còn chậm.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển.
4. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm, chưa đồng bộ
- Mô hình tăng trưởng còn phụ thuộc nhiều vào vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp.
- Đổi mới công nghệ và phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao còn chậm;
- Cơ cấu lại đầu tư công ở một số ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu; đầu tư còn dàn trải, hiệu quả thấp, thất thoát, lãng phí ở một số dự án còn lớn; xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản chậm.
- Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng mới thực hiện được giai đoạn đầu. Chất lượng tín dụng và dịch vụ ngân hàng cải thiện chậm.
- Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở một số doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu.
5. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều mặt yếu kém, khắc phục còn chậm
- Một số chính sách về an sinh xã hội, giảm nghèo còn chồng chéo, hiệu quả chưa cao.
- Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân nhiều mặt còn hạn chế.
- Việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam chưa đạt yêu cầu.
6. Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn hạn chế
- Quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu nhiều mặt còn hạn chế; pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa nghiêm.
- Điều tra cơ bản và quy hoạch sử dụng tài nguyên chưa đáp ứng yêu cầu.
- Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện; ô nhiễm nhiều nơi còn nghiêm trọng, nhất là tại một số làng nghề, lưu vực sông và khu dân cư tập trung ở nông thôn.
- Tình trạng ngập úng ở một số thành phố lớn chậm được khắc phục. Hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở ven biển, ven sông diễn biến phức tạp, nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
7. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế
- Cải cách hành chính một số mặt chưa đạt yêu cầu.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh.
- Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp.
- Công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu.
- Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo hiệu quả chưa cao, một số trường hợp còn kéo dài, gây bức xúc trong dư luận.
8. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh chưa thật chặt chẽ
        Tiềm lực quốc phòng, an ninh, năng lực dự báo chiến lược chưa đáp ứng được yêu cầu. Bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức. Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở một số nơi gắn kết chưa thật chặt chẽ.
        An ninh, trật tự và an toàn xã hội trên một số địa bàn còn phức tạp. Bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng còn nhiều bất cập. Trật tự, an toàn giao thông, tai nạn giao thông vẫn còn diễn biến phức tạp, nghiêm trọng.
9. Công tác đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có mặt chưa thật chủ động và hiệu quả chưa cao
- Quan hệ đối ngoại có mặt còn hạn chế. Chưa tạo được nhiều sự đan xen lợi ích trong quan hệ với các đối tác. Chưa thật chủ động phát huy nội lực, truyền thông và chuẩn bị các điều kiện để khai thác hiệu quả cơ hội thuận lợi về hội nhập quốc tế. Cơ chế phòng ngừa, giải quyết tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế còn bất cập
* Những hạn chế, yếu kém trên đây do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Nguyên nhân chủ quan chủ yếu là:
- Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa đủ rõ, còn khác nhau, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới. Vì vậy, trong chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội nhiều mặt còn lúng túng, thiếu nhất quán, chưa thật phù hợp với kinh tế thị trường.
- Khâu tổ chức thực hiện nhiều mặt còn hạn chế. Việc thể chế hoá nhiều trường hợp còn chậm, chất lượng thấp, tính khả thi chưa cao. Chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện và sơ kết, tổng kết thực tiễn. 
- Phương thức lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội chưa thật phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao, nhất là khả năng phân tích, dự báo và phản ứng chính sách. Phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và việc đào tạo, sử dụng cán bộ còn nhiều mặt hạn chế. Tính thượng tôn pháp luật, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
IV. Một số bài học kinh nghiệm
1. Phải quán triệt, thể chế hóa kịp thời, phù hợp chủ trương đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; sáng tạo trong tư duy phát triển, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân làm mục tiêu cao nhất.
2. Tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm trọng điểm, gắn trước mắt với cơ bản lâu dài và ứng phó kịp thời với diễn biến mới của tình hình. Đề cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu. Lấy kết quả thực hiện để đánh giá tính đúng đắn của chính sách và năng lực quản lý điều hành.
3. Thực hiện nhất quán, thiết thực phát triển văn hóa và tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước phát triển. Tăng cường quyền làm chủ của người dân, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, là chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
4. Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, thu hút mạnh và sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài.
5. Phải thường xuyên tăng cường khối đại đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.
V.  Về đánh giá tình hình 5 năm 2010 -2015 của Nghệ An
VI. Về đánh giá tình hình 5 năm 2010 -2015 của Quỳnh Lưu
(Chỉ lấy một số kết quả nổi bật như: Tăng trưởng kinh tế, GRDP bình quân giai đoạn 2011 - 2015 . GRDP bình quân đầu người năm 2015. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch? Thu ngân sách lần so với đầu nhiệm kỳ. Thu hút đầu tư  các công trình, dự án lớn)
B. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
5 NĂM 2016 – 2020
        I. Bối cảnh quốc tế và trong nước 
- Tình hình thế giới
+ Trong 5 năm tới, dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta.
+ Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trong khu vực ngày càng quyết liệt.
+ Tranh chấp lãnh thổ, đặc biệt là trên Biển Đông diễn biến phức tạp, gay gắt và rất khó lường.
+ Kinh tế thế giới phục hồi chậm.
- Tình hình trong nước
+ Thế và lực của ta đã lớn mạnh hơn và có thêm kinh nghiệm trong lãnh đạo quản lý, chỉ đạo điều hành nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém.
+ Nhu cầu cho đầu tư phát triển, nhất là kết cấu hạ tầng, bảo đảm quốc phòng, an ninh rất lớn nhưng nguồn lực hạn hẹp.
+ Nợ công đã sát trần cho phép.
+ Tác động của biến đổi khí hậu ngày càng nặng và nhanh hơn.
II. Quan điểm phát triển kinh tế - xã hội
1. Tiếp tục đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô; phát triển hài hoà giữa chiều rộng và chiều sâu; Phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững hoà bình, ổn định để xây dựng đất nước.
3. Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển của Nhà nước. Tập trung tạo dựng thể chế, cơ chế, chính sách và môi trường đầu tư, kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị trường.
4. Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế.
III. Mục tiêu và các chỉ tiêu
1. Mục tiêu tổng quát
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển văn hoá, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
2. Các chỉ tiêu chủ yếu
Về kinh tế:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD
- Tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%.
- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34% GDP.
- Bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30 - 35%.
Về xã hội:
- Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%.
- Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%.
- Có 9 - 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân.
- Tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số.
- Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5%/năm.
Về môi trường:
Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y tế được xử lý. Tỉ lệ che phủ rừng đạt 42%.
*Một số chỉ tiêu cơ bản của Nghệ An nhiệm kỳ 2015-2020: (chỉ một số chỉ tiêu cơ bản)
*Một số chỉ tiêu cơ bản của Quỳnh Lưu nhiệm kỳ 2015-2020(chỉ một số chỉ tiêu cơ bản)
IV. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Nghị quyết nêu 10 nhiệm vụ, giải pháp:
1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội
- Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
 
- Nhà nước sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hoá, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân.
- Từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước, tăng tỉ trọng thu nội địa và bảo đảm tỉ lệ hợp lý giữa chi thường xuyên, chi đầu tư, chi trả nợ; phấn đấu giảm dần bội chi. Quản lý chặt chẽ và sử dụng hiệu quả nợ công; kiểm soát chặt chẽ vốn vay do Chính phủ bảo lãnh; vay của chính quyền địa phương và của doanh nghiệp nhà nước; bảo đảm an toàn tài chính quốc gia.
2. Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh
Đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Kết hợp hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, không ngừng nâng cao năng suất
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Gắn kết hài hoà tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ, cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Chú trọng phát triển kinh tế vùng, nâng cao chất lượng xây dựng và quản lý quy hoạch, bảo đảm công khai, minh bạch. Tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng
-Triển khai thực hiện hiệu quả Luật Đầu tư công và kế hoạch đầu tư công trung hạn, bảo đảm quản lý tập trung, thống nhất, phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng cân đối vốn của Nhà nước và tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước
- Tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu, nâng cao năng lực quản trị, tiềm lực tài chính, hiệu quả hoạt động. Thực hiện công khai, minh bạch và áp dụng chuẩn mới về quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
- Đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; tăng cường quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu; nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả hoạt động; thực hiện tốt quy định về phá sản doanh nghiệp.
* Về tái cơ cấu ở Nghệ An 5 năm tới
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đã chỉ rõ:
Thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển nhanh và bền vững trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Tiếp tục tái cơ cấu 3 trọng tâm là: tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu hệ thống ngân hàng tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín dụng; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
- Đối với nông nghiệp: Phát triển toàn diện theo hướng nông nghiệp sinh thái, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ cao.
- Đối với công nghiệp, xây dựng: Phát triển công nghiệp công nghệ cao trong các ngành: chế biến; chế tạo; khai khoáng; sản xuất và phân phối điện, nước..
- Đối với dịch vụ: Phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, trong đó du lịch là ngành đột phá.
Thực hiện tái cơ cấu vùng kinh tế: Phát huy lợi thế từng vùng, tăng cường liên kết vùng, tập trung phát triển 3 vùng trọng điểm.
+ Thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò gắn với vùng Nam Nghệ - Bắc Hà.
+ Hoàng Mai, Quỳnh Lưu gắn với vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ.
+ Miền Tây Nghệ An, trọng điểm là Tân Kỳ - Đô Lương - Nghĩa Đàn - Thái Hòa - Quỳ Hợp.
3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và đô thị 
- Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại.
- Bảo đảm kết nối thông suốt giữa các trung tâm kinh tế lớn, các đầu mối giao thông cửa ngõ, các tuyến có nhu cầu vận tải lớn.
 
4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ
- Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và phân bổ lao động hợp lý, khai thác tốt cơ hội dân số vàng.
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân.
- Tăng cường quản lý nhà nước, nâng cao tiềm lực và hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ. Xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, khuyến khích mạnh các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ.
5. Phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao mức sống người có công; làm tốt công tác trợ giúp xã hội; phát triển hệ thống an sinh xã hội hiệu quả, bền vững.
- Cải cách chính sách tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với tăng năng suất lao động.
- Phát triển dân số bền vững, phấn đấu tuổi thọ trung bình đến năm 2020 đạt 74 - 75 tuổi.
- Tăng cường quản lý nhà nước về y tế. Nâng cao hiệu quả công tác y tế dự phòng, chất lượng khám chữa bệnh, khắc phục nhanh tình trạng quá tải bệnh viện.
- Tiếp tục xây dựng văn hoá, con người Việt Nam phát triển toàn diện.
- Khuyến khích tự do sáng tạo trong hoạt động văn hoá, nghệ thuật đi đôi với đề cao trách nhiệm
công dân, trách nhiệm xã hội.
- Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, người khuyết tật, gia đình, thanh thiếu niên, bình đẳng giới, bà mẹ, trẻ em và vì sự tiến bộ của phụ nữ.
- Phát triển thể dục, thể thao cho mọi người và thể thao thành tích cao, thể thao chuyên nghiệp. Triển khai thực hiện hiệu quả Đề án quy hoạch phát triển và quản lý báo chí.
6. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên bảo vệ môi trường
- Tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
- Chú trọng cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao khả năng chống chịu, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở ven sông, ven biển.
7. Phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch và thực hiện đồng bộ các giải pháp về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Kiện toàn mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy phòng, chống tham nhũng. Thực hiện nghiêm quy định về kê khai, kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
- Phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
8. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tuân thủ pháp luật
- Nhà nước quản lý và định hướng phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết phù hợp với kinh tế thị trường, giảm thiểu can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính.
- Nâng cao hiệu lực hiệu quả bộ máy nhà nước, bảo đảm tinh gọn, trong sạch vững mạnh. Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, năng động, hiệu lực, hiệu quả, lấy kết quả phục vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp là tiêu chí đánh giá.
- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm và tính chuyên nghiệp cao. Thực hiện tinh giản biên chế gắn với cải cách tiền lương.
9. Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh, bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
- Thực hiện tốt Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, ổn định chính trị - xã hội đồng thời tạo môi trường hoà bình, hợp tác để xây dựng và phát triển đất nước. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hoá một số quân chủng, binh chủng, lực lượng.
10. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hoà bình và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, hiệu quả trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc.
- Kiên trì thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và các thỏa thuận của khu vực, tôn trọng tiến trình ngoại giao và pháp lý.
- Thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký, nhất là các FTA thế hệ mới.
 
 
CHUYÊN ĐỀ III
BÁO CÁO TỔNG KẾT VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TW 4 (KHÓA XI) “MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY”:
 
PHẦN THỨ NHẤT
 Xin được hệ thống lại 12 điểm mới về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề cập và có liên quan đến Nghị quyết Trung ương 4:
* Điểm mới thứ nhất: Báo cáo chính trị trình Đại hội XII nhấn mạnh và thể hiện vai trò quan trọng, vị trí “then chốt” của công tác xây dựng Đảng, thể hiện trên các nội dung sau:
Một là: Xây dựng Đảng TSVM được xác định là thành tố đầu tiên trong chủ đề Đại hội và là tiêu đề của báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng.
Hai là: Mục về xây dựng Đảng có nội dung dài nhất trong 15 mục của báo cáo chính trị (mục xây dựng Đảng có 20 trang, 14 mục còn lại của báo cáo có 68 trang)
Ba là: Nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ trọng tâm, đầu tiên  trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng.
* Điểm mới thứ 2: Nghị quyết Đại hội XII xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, thì 2 nhiệm vụ liên quan đến thực hiện 3 vấn đề cấp bách mà Nghị quyết Trung ương 4 đề ra, đó là:
1- (1)Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. (2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
2- (3) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
* Điểm mới thứ 3:  Nghị quyết Đại hội XII xác định phương hướng chung có tính chất bao trùm của công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII là: Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Việc nhấn mạnh tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 thể hiện quyết tâm chính trị của toàn Đảng và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và cơ bản, lâu dài của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện nay.
* Điểm mới thứ 4: Đại hội XII nêu 10 nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị (tăng 2 nhiệm vụ so với Đại hội XI) là:
Thứ nhất: Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân
Thứ 2: Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
* Điểm mới thứ 5: Nhiệm vụ “ xây dựng Đảng về chính trị”, Đại hội XII bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp mới:
Một là: Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên.
(Trước đây chỉ mới đề cập đến năng lực lãnh đạo mà chưa đề cập đến năng lực cầm quyền, thì đến Đại hội XII đã đề cập đến năng lực cầm quyền của Đảng).
Hai là: Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển.
Ba là: Hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ các cấp.
Bốn là: Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
* Điểm mới thứ 6: Nhiệm vụ về công tác tư tưởng, lý luận: Đại hội XII bổ sung và nhấn mạnh: “Đổi mới công tác tư tưởng, ký luận”;. Đồng thời,chỉ rõ “ đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.
* Điểm mới thứ 7: Nhiệm vụ về rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Đại hội XII bổ sung và nhấn mạnh: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng”. Đây là 1 nội dung quan trọng để thực hiện mục tiêu “xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”.
 Điều này thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đấu tranh đẩy lùi tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Một vấn đề nhức nhối mà nhân dân quan tâm hiện nay.
* Điểm mới thứ 8: Nhiệm vụ về tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; trong đó, nêu rõ: “Thực hiện chủ trương quản lý biên chế thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị. Tinh giản tổ chức, bộ máy gắn với tiếp tục phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức; thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh và tinh giản biên chế trong toàn hệ thống chính trị”.
* Điểm mới thứ 9: Nhiệm vụ về kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; Đại hội XII bổ sung và nhấn mạnh là: “Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên”. Đồng thời bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp mới: “Kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị, bảo đảm bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở”
* Điểm mới thứ 10: Nhiệm vụ về đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Đại hội XII nhấn mạnh: Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ”.  Trong đó, nhấn mạnh một số giải pháp mới là: “Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,... để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lước, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài”.
* Điểm mới thứ 11: Về đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; Đại hội XII bổ sung thêm: Đổi mới, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng”. Đồng thời, nhấn mạnh: Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không để người thân trong gia đình lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi”.
* Điểm mới thứ 12: Nhiệm vụ về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đại hội XII bổ sung thêm về nội dung: “Đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng”. Đồng thời bổ sung thêm một số nhiệm vụ, giải pháp mới là: Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”. Trước đây người ta thường nói nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn thì lần này Đại hội XII đặt vấn đề phải tổng kết thực tiễn, rồi mới đến nghiên cứu lý luận hay là tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học rồi mới đến nghiên cứu lý luận.
 
 
 
PHẦN THỨ 2
Tình hình thực hiện Nghị quyết:
I. Về bối cảnh ra đời và nội dung cơ bản của Nghị quyết:
Trong bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu 4 lý do; tóm tắt lại như sau:Một là, vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng luôn luôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối vói sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là bài học lớn, là kết luận sâu sắc được rút ra qua hon 80 năm hoạt động của Đảng ta; đồng thời, cũng là lý luận khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều đảng, nhiều nước trên thế giới.Thực tế ở nước ta cho thấy, càng đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập lại càng cần phải có sự lãnh đạo của Đảng và coi trọng công tác xây dụng Đảng; đây là nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi toàn bộ Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, nền độc lập, tự chủ của Tổ quốc ta. Vào thời điểm này, chúng ta càng cần phải khẳng định mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng và ý nghĩaquan trọng của công tác xây dựng Đảng     Hai là, yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay rất to lớn, nặng nề, khó khăn, đòi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo lên cao hơn nữa, nâng sức chiến đấu mạnh mẽ hơn nữa.Tình hình thế giới lại đang có những diễn biến hết sức mau lẹ, phức tạp, khó dự báo; cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa phong trào hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội với các thế lực đế quốc cực đoan, hiếu chiến đang diễn ra dưới nhiều hình thức, sắc thái mới, rất quyết liệt. Có không ít vấn đề tác động trực tiếp đến nước ta, vào cả tư tưởng, tình cảm, tâm trạng của cán bộ, đảng viên, nhân dân ta.
Ba là, bản thân Đảng, bên cạnh mặt tích cực, bản chất và truyền thống tốt đẹp được phát huy cũng đang đứng trước nhiều yêu cầu mới và có những hiện tượng tiêu cực, phức tạp mới. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, cán bộ...; đất nước lại phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, nhiều người lo lắng về Đảng, về bản chất Đảng, lo lắng mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế tác động vào Đảng. Thực tế đã có bộ phận suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Có người công khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, làm trái nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng; tình trạng quan liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên tắc của Đảng bị vi phạm. Đây là điều đáng lo ngại nhất và cũng là nguy cơ lớn nhất đối với một đảng cầm quyền.
Chúng ta đã tiến hành công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động, làm cho Đảng ta ngày càng tiến bộ, trưởng thành; song vẫn còn hạn chế. Các mặt khuyết điểm, yếu kém chưa khắc phục được bao nhiêu, có mặt còn phức tạp thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Bốn là, sự chống phá điên cuồng và quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thực hiện được âm mưu cơ bản đó, các thế lực thù địch đã áp dụng lần lượt hết chiến lược này đến chiến lược khác, hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, rất kiên trì, kiên quyết, bền bỉ. “Diễn biến hòa bình” là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, là “thủ đoạn hòa bình để giành thắng lợi”. Thời gian gần đây, các làn sóng chống đối ta về mặt tư tưởng chính trị lại rộ lên, có lúc dồn dập. Một số tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài tìm mọi cách câu kết, móc nối với số người bất mãn trong nước, kêu gọi người Việt ở hải ngoại cố kết, ủng hộ, tiếp sức cho lực lượng quốc nội nổi dậy.
Trong bối cảnh tình hình nêu trên, nếu Đảng không giữ vững được bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí và hành động; không trong sạch về phẩm chất đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy mà Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Và đó cũng chính là những lý do giải thích vì sao Ban Chấp hành Trung ương bàn và ban hành Nghị quyết “Một số vẩn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay ”.
2. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết
2.1-Nghị quyết Trung ương 4 được viết rất ngắn gọn, nhưng chứa đựng nhiều nội dung cơ bản và quan trọng; có nhiều điểm mới so với các nghị quyết trước đây cả về nội dung và cách làm:
-                 Về phương pháp tiếp cận và xây dựng Nghị quyết. Nghị quyết không dàn trải, mà tập trung nêu và giải quyết 3 vấn đề cấp bách nhất của công tác xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay; với mong muốn khắc phục những cách làm dàn trải trước đây.
-                 Về chỉ đạo: Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai, thực hiện ở các cấp: (1) tổ chức Hội nghị toàn quốc học tập, quán triệt Nghị quyết với quy mô lớn nhất từ trước đến nay và các hội nghị đối với cán bộ nghỉ hưu; (2) thành lập Bộ phận Thường trực chỉ đạo thực hiện Nghị quyết ở Trung ương và cấp ủy các cấp; (3) cấp ủy cấp trên thành lập các tổ công tác dự và chỉ đạo kiểm điểm ở cấp dưới; hàng năm có sơ kết, cuối nhiệm kỳ tổng kết và báo cáo trước Đại hội Đảng;...
-                 Về cách làm: (1) Bộ Chính trị ban hành 12 tiêu chí để xác định việc chuẩn bị và tổ chức kiểm điểm chưa đạt yêu cầu. (2) Nội dung kiểm điểm chỉ tập trung vào 3 vấn đề cấp bách và việc xử lý, giải quyết những vấn đề bức xúc ở địa phương, cơ quan, đơn vị. (3) Tiến hành kiểm điểm từ trên xuống dưới, tập thể trước, cá nhân sau và nêu cao vai trò gương mẫu của cấp trên, người đứng đầu; các cấp ủy lấy ý kiến góp ý của cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc và cán bộ chủ chốt của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị đã nghỉ hưu; cấp trên rà soát, gợi ý kiểm điểm đối với những nơi có vấn đề nổi cộm; nơi nào chuẩn bị chưa tốt thì chưa được kiểm điểm. (4) Sau kiểm điểm, mỗi tập thể, cá nhân phải xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, yếu kém.
2.2-Về mục tiêu: Nghị quyết xác định “Phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ truơng, nghị quyết của Đảng”.
2.3-      Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt: Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị, gắn với thực hiện tổng thể các nghị quyết khác của Đảng để khắc phục những khuyết điểm, yếu kém kéo dài trong Đảng, và tạo bước đột phá về công tác cán bộ.
2.4-  Nội dung cốt lõi: 3 vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải pháp
Ba vấn đề cấp bách là:
 (1) Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tu tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
(2) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ưong, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ động hội nhập quốc tế.
(3) Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ vói tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong 3 vấn đề cấp bách trên thì vấn đề cấp bách thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.
Bốn nhóm giải pháp thực hiện:
(1) Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cấp trên. (2) Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng. (3) Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách. (4) Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị tư tưởng.
2.5-      Nhiệm vụ trọng tâm: Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
2.6-      Phương châm và phương pháp tiến hành: (1) Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo thực tế khách quan. (2) Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né tránh. (3) Các giải pháp phải bảo đảm đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm; kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”; nói đi đôi với làm; tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất. (4) Phải làm kiên quyết, kiên trì, xác định rồ lộ trình thực hiện, thời gian hoàn thảnh, làm tùng bước vững chắc, thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ. (5) Bình tĩnh, tỉnh táo, không nóng vội, cực đoan; đồng thời không để rơi vào trì trệ, hình thức; giữ đúng nguyên tắc, không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng, kích động, xuyên tạc, đả kích gây rối nội bộ.
    I- Về những kết quả đạt được và nguyên nhân:
1. Những kết quả đạt được
-                 Đại hội XII của Đảng nhận định: “Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã đạt được những kết quả hước đầu quan trọng; có tác động thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cổ thêm niềm tin trong Đảng và nhân dân.
Tuy nhiên, để góp phần đánh giá đúng những kết quả đã đạt được, chúng ta cần phân tích, làm rõ những việc đã làm để thực hiện ba vấn đề cấp bách mà Nghị quyết Trung ương 4 đề ra. Cụ thế là:
1.1. Về vấn đề cấp bách thứ nhất: Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên, nhân dân đối với Đảng
Để thực hiện vấn đề cấp bách thứ nhất, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp và thực hiện có kết quả một số nội dung sau:
- Bộ Chỉnh trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp đã thực hiện nghiêm túc và chỉ đạo thực hiện chặt chẽ việc kiếm điếm tự phê bình và phê bình. Cụ thể là:
-                 Việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể, cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư được chuẩn bị công phu, nghiêm túc. Bộ Chính trị đã lấy ý kiến đóng góp của các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương; các đồng chí nguyên là lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nguyên ủy viên Trung ưong Đảng, bộ trưởng và tương đưong cho tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Sau hơn 2 tháng chuẩn bị, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tiến hành kiểm điểm trong 21 ngày và chia làm nhiều đợt, trong đó kiểm điểm tập thể 4 ngày, kiểm điểm cá nhân 12 ngày và 5 ngày thảo luận, làm rõ một số vấn đề liên quan đến kiểm điểm cá nhân. Sau kiểm điểm, Bộ Chính trị có kết luận bằng văn bản về những uu, khuyết điểm chính của tập thể và từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thu. Nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc hoặc dư luận có liên quan đến các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan Trung uơng đã được xem xét và kết luận, góp phần đánh giá năng lực, phẩm chất cán bộ và bảo vệ tổ chức, bảo vệ uy tín của cán bộ.
-                 Kiểm điểm ở cấp tỉnh và tỉnh đương (130 đơn vị), từng tập thể và cá nhân đã nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về uu, khuyết điểm của mình; đồng thời, nhận diện rõ hơn, sâu sắc hơn nhũng biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của tập thể và cá nhân {Bộ Chỉnh trị gợi ý kiểm điểm 56 tập thể và 4 cán bộ diện Trung ương quản lý; nhiều ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy kiểm điểm tập thể và cá nhân từ 7-10 ngày). Sau kiểm điểm, Bộ Chính trị và một số ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy đã nghiêm túc tự nhận hình thức kỷ luật; nhận khuyết điểm với Trung ương, với đảng bộ và nhân dân địa phưong; xem xét trách nhiệm, xử lý hoặc đề nghị xử lý kỷ luật đối với một số đồng chí có khuyết điểm.
-                 Thông qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình ở các cấp theo Nghị quyết Trung ương 4 đã tăng cường kỷ luật, kỷ cưong của Đảng, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm và góp phần làm trong sạch Đảng. Trong 5 năm (chủ yếu là 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật gần 1.400 tổ chức đảng và hơn 74.000 đảng viên ở các cấp. Trong số bị kỷ luật, có 82 tỉnh ủy viên và tương đương; hơn 1.500 huyện ủy viên và tương đương; gần 3.000 đảng viên bị kỷ luật bằng hình thức cách chức; hơn 8.700 bị khai trừ ra khỏi Đảng và hơn 4.300 cán bộ, đảng viên phải xử lý bằng pháp luật.
Qua kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và kiểm điểm hàng năm, nhiều đồng chí đã nhận diện rõ hơn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống như: (1) Trong công tác và sinh hoạt còn nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dễ người, dễ ta”, “dĩ hòa vi quý”, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; (2) còn nể nang, né tránh trong đấu tranh phê bình, góp ý với đồng chí, nhất là với lãnh đạo; (3) chưa hết lòng hết sức vì công việc, vì dân, chưa làm tròn bổn phận, chức trách, nhiệm vụ được giao; (4) còn tư tưởng chưa thực sự yên tâm công tác, chưa gắn bó lâu dài với cơ quan, ngại khó, ngại khổ, chọn việc dễ, bỏ việc khó, làm việc cầm chừng, hiệu quả thấp, chọn việc có nhiều điều kiện, cơ hội phát triển, thăng tiến hoặc thu được nhiều lợi ích, có thu nhập cao; (5) thích làm việc ở cơ quan nhà nước, không thích làm việc ở cơ quan Đảng, Quốc hội, đoàn thể chính trị xã hội, thích làm việc ở gần nhà, không muốn nhận nhiệm vụ ở nơi xa, có nhiều khó khăn, gian khổ, điều kiện khắc nghiệt; (6) trông chờ, ỷ lại cấp trên, sa sút ý chí, thờ ơ, vô cảm trước nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, dao động trước khó khăn... (7) một số cán bộ, đảng viên có lối sống thực dụng, tư tưởng bình quân chủ nghĩa, đoàn kết xuôi chiều; (8) ý thức tổ chức, kỷ luật chưa nghiêm; (9) khi nghỉ hưu, nghỉ công tác tự bỏ sinh hoạt hoặc xin miễn sinh hoạt; (10) có một số đảng viên là hội viên hội cựu chiến binh có biểu hiện công thần, bảo thủ, thiếu gưong mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống.
- Việc sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình đã đem lại một sổ kết quả tích cực. Cụ thể là:
+ Sau kiểm điểm, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên đều xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã được kết luận với phương châm: Những khuyết điểm cần khắc phục và có thể khắc phục ngay thì sửa chữa, khắc phục ngay; những khuyết điểm phải khắc phục, nhưng cần có thời gian để chuẩn bị thì xây dựng kế hoạch, xác định rõ thời gian, lộ trình cụ thể để sửa chữa, khắc phục.
-                 Việc sửa chữa, khắc phục khuyết điểm ở các cấp được tập trung vào 3 lĩnh vực sau: Một là, rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định, hướng dẫn và các cơ chế, chính sách đã có cho phù họp với thực tiễn; đồng thời xây dựng, ban hành các quy chế, quy định, hướng dẫn mới để thực hiện. Hai là, tập trung giải quyết, xử lý dứt điểm những vụ việc nổi cộm, bức xúc trong dư luận, nhất là trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, khoáng sản; trong quản lý đô thị và trật tự xây dựng; các vụ tranh chấp, khiếu kiện phức tạp đông người. Ba là, rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ, phục vụ công tác nhân sự cấp ủy tại đại hội đảng các cấp và Đại hội XII của Đảng.
Việc sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm được kết luận sau kiểm điểm, tự phê bình và phê bình ở các cấp đã kịp thời giải quyết, xử lý dứt điểm được một số vụ việc nổi cộm, bức xúc trong dư luận ở các địa phương, cơ quan, đơn vị, góp phần củng cố thêm niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng và việc thực hiện Nghị quyết..
- Công tác đấu tranh phòng, chổng tham nhũng, lãng phí được Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tố chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao, đạt một số kết quả bước đầu. Cụ thể là:
-                 Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định tái lập Ban Nội chính Trung ương và Ban Nội chính các tỉnh ủy, thành ủy để tham mưu cho các cấp ủy về công tác nội chính, đồng thời là cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.
-                 Bộ Chính trị đã quyết định: (1) Thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng với thành phần phù họp hơn và chọn khâu đột phá là: đẩy mạnh tiến độ, xử lý nghiêm minh các vụ án, vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm; (2) Ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng; (3) Quy định vê công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý;...
-                 Ban Chỉ đạo Trung ưong về phòng, chống tham nhũng đã tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; cho chủ trương chuyển nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp cho cơ quan chức năng điều tra, truy tố và xét xử công khai theo quy định của pháp luật {Năm 2012, Ban Chỉ đạo lập 7 đoàn kiểm tra ở 11 tỉnh, thành phổ và 7 cơ quan Trung ương; bổ sung 43 vụ án, 25 vụ việc có dấu hiệu tham nhũng thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi. Năm 2013, lập 4 đoàn kiểm tra, giám sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng lớn ở 8 tỉnh, thành phổ. Năm 2014, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng ở 7 bộ, ngành, cơ quan Trung ương. Năm 2015, lập 7 đoàn kiểm tra, giám sát, đôn đốc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại 4 bộ và 10 tỉnh, thành phố).
-                 Quốc hội đã bổ sung, sửa đổi Luật phòng, chống tham nhũng; Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng. Ban cán sự đảng Chính phủ xây dựng Đề án uTăng cường thực hiện và kiểm soát việc kê khai tài sản”. Các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã bổ sung, sửa đổi, ban hành mới một số quy định, quy chế, cơ chế, chính sách về quản lý tài chính; chi tiêu, mua sắm tài sản công; quản lý và sử dụng xe công; về sử dụng ngân sách nhà nước trong việc đi công tác, học tập, nghiên cúư ở nước ngoài; quản lý. vốn trong các doanh nghiệp nhà nước;...
           - Nêu tóm tắt 1số kết quả thực hiện Nghị quyết ở địa phương, đơn vị mình 
1.2. Về vấn đề cấp bách thứ 2: Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế
Để thực hiện vấn đề cấp bách thứ 2, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo thực hiện có kết quả một số nội dung sau:
- Công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động và luân chuyển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương được đẩy mạnh, tạo sự chuyển biến mới có tính tích cực. Cụ thể là:
Thứ nhất, đã triển khai xây dựng và thực hiện có hiệu quả Đề án “Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 - 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Đây là lần đầu tiên Đảng ta tiến hành quy hoạch cán bộ cấp chiến lược theo một quy trình chặt chẽ, bài bản, khoa học, dân chủ và tạo được sự thống nhất cao, khắc phục một bước đáng kể tình trạng hẫng hụt về cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
Thứ hai, thực hiện việc rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch ban chấp hành, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương giai đoạn 2014 - 2016 và giai đoạn 2016 - 2021, phục vụ cho công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Đại hội XII của Đảng.
Thứ ba, trên cơ sở quy hoạch; Bộ Chính trị đã chỉ đạo: (1) Tổ chức 2 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho 154 đồng chí là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XI; (2) Tổ chức 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp cho 511 đồng chí {cấp tỉnh có 231 đồng chí, các cơ quan Trung ương có 280 đồng chí; có 45 đồng chỉ nữ, 31 cán hộ người dân tộc thiểu số, 93 đồng chí trong lực lượng vũ trang)] (3) Tổ chức 3 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho hơn 170 đồng chí bí thư cấp ủy cấp huyện.
Qua đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XII của Đảng cho thấy: Hầu hết các đồng chí trúng cử Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XII và ban chấp hành, ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương đều nằm trong quy hoạch và được đào tạo, bồi dưỡng qua các lớp do Trung ương và địa phương tổ chức .
Thứ tư, công tác điều động, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương được đẩy mạnh và tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, dân chủ, tạo được sự thống nhất cao giữa các cơ quan có liên quan ở Trung ưong và các địa phưong; giữa nơi cử cán bộ đi và nơi tiếp nhận cán bộ đến. Thông qua điều động, luân chuyển cán bộ, đã kịp thời bổ sung cán bộ cho những nơi khó khăn và góp phần đào tạo, bồi dưõng, rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn công tác, giúp cho cán bộ phát triển nhanh, toàn diện hơn, khắc phục một bước tình trạng hẫng hụt cán bộ.
- Triển khai thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các thành viên cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thế chỉnh trị - xã hộị. Cụ thể là:
-                 Bộ Chính trị đã ban hành Quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Tại Hội nghị Trung ưong 10 (khoá XI), Ban Chấp hành Trung ưong đã lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư.
-                 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội đã lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh; tại kỳ họp thứ 8 đã lấy phiếu tín nhiệm đối với 50 chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn, được cử tri cả nước đánh giá cao.
-                 Kết quả là: (1) Việc lấy phiếu tín nhiệm đã được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, đúng quy định của Trung ương; đã tạo được hiệu ứng dư luận xã hội tốt. (2) về cơ bản, kết quả lấy phiếu tín nhiệm đã phản ánh trung thực, khách quan mức độ tín nhiệm, năng lực thực tiễn của cán bộ. (3) Đây cũng là cơ sở quan trọng để cấp ủy nhận xét, đánh giá cán bộ được khách quan, chính xác hơn; giúp cho mỗi cán bộ tự soi xét bản thân, thấy được mức độ tín nhiệm của mình để phấn đấu vươn lên, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác được giao (thực tế có đồng chí khi lấy phiếu tín nhiệm lần đầu ở Quốc hội đạt thấp; kết quả lấy phiếu tín nhiệm lần thứ hai đã năng lên rõ rệt).
          - Nêu tóm tắt 1số kết quả thực hiện Nghị quyết ở địa phương đơn vị mình 
1.3. Về vấn đề cấp bách thứ 3: Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Để thực hiện vấn đề cấp bách thứ 3, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng đã chỉ đạo thực hiện có kết quả một số nội dung sau:
- Ban Chấp hành Trang ưong, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các ban, cơ quan đảng Trung ương đã sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới một số quy định, quy chế, hướng dẫn theo hướng đề cao hon trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân như: (1) Quy chế bầu cử trong Đảng; (2) Quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; (3) Quy định về việc chất vấn và trả lời chất vấn trong Đảng; (4) Quy chế giám sát cán bộ, đảng viên diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; (5) Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; (6) Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; (7) Quy định việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền,...
- Bộ Chính trị ban hành hướng dẫn thực hiện việc chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ưong; đồng thời chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ưong phối họp với các ban đảng Trung ương hưóng dẫn việc thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của ban chấp hành đảng bộ các cấp.
- Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương đã rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy theo hướng xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của đồng chí bí thư, các đồng chí trong ban thường vụ và thường trực cấp ủy; sửa đổi, bổ sung quy định về phân cấp quản lý cán bộ; xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu,... Qua đó, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng đã có chuyển biến tích cực; khắc phục một bước tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng.
- Nêu tóm tắt  1 số quả thực hiện Nghị quyết ở địa phương, đơn vị mình 
        2. Nguyên nhân của kết quả đạt được:
(1)          - Trung ương đã xác định, đúng và trúng những vấn đề cấp bách nhất của. công tác xây dựng Đảng hiện nay để ban hành Nghị quyết; đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù họp với nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; được đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lóp nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia.
(2)          - Đảng đã: xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; kịp thời phát hiện, xử lý những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là tình trạng suy thoái trong Đảng, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên mà dư luận quan tâm; không ngừng nâng cao năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm thành công và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
(3)          - Trong quá trinh triển khai thực hiện Nghị quyết, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện với quyết tâm chính trị cao. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các cấp, nhất là người đứng đầu nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu và chịu trách nhiệm trước cấp trên về tổ chức thực hiện Nghị quyết.
(4)          - Việc triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết được chỉ đạo chặt chẽ, tiến hành bài bản, khoa học và có một số đổi mới về nội dung, cách làm. Sau khi có Nghị quyết, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị và Kế hoạch thực hiện; chỉ đạo các ban, cơ quan đảng Trung ương ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để thực hiện. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã ban hành chương trình, kế hoạch thực hiện với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc, phù hợp với điều kiện của địa phương, cơ quan, đơn vị.
      ( 5)- Quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ưong 4 đã chú trọng: (1) Kết hợp chặt chẽ với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; (2) Có sự tham gia tích cực và sự phổi hợp chặt chẽ của các tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; (3) Kết hợp đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, với thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và công tác điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật; (4) Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết được các cấp ủy quan tâm chỉ đạo, tiến hành thường xuyên hơn và có trọng tâm, trọng điểm. (5) Đề cao tính tự giác, gương mẫu của cấp trên và người đứng đầu, đi đôi với giáo dục và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm. (6) Coi trọng công tác thông tin, tuyên truyền về kết quả thực hiện Nghị quyết.
III. Về những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân:
Đại hội XII của Đảng đã nhận định, bên cạnh những kết quả đạt được, trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “một số việc chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra” và còn có “một số hạn chế, khuyết điểm”. Cụ thể là:
1. Một số nội dung Nghị quyết đề ra nhưng chưa thực hiện:
        -Một số quy định, quy chế cần ban hành theo Kế hoạch 08-KH/TW của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết nhưng vẫn chưa được ban hành, như: (1) Quy chế dân chủ trong Đảng; (2) Quy chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng; (3) Quy định thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ; quy định về xử lý trách nhiệm cá nhân người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao;...
- Một số nội dung về công tác cán bộ nêu trong Nghị quyết, nhưng chưa thực hiện được, như: (1) Công tác đánh giá cán bộ là khâu khó và yếu nhất hiện nay nhưng vẫn chưa làm được. (2) Việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá theo chức danh cán bộ. (3) Việc xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng người tài để tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược. (4) Việc thực hiện chủ trưong bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện không phải người địa phương. (5) Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ƯBND cấp xã, huyện; gắn với xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực sự có hiệu quả, ngăn chặn lạm quyền, độc đoán; (6) Sơ kết rút kinh nghiệm để có chủ trương về việc đại hội từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực tiếp bầu bí thư cấp ủy có số dư. Ban hành quy chế để hàng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể, cá nhân trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Ban chấp hành Đảng bộ các cấp góp ý kiến thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và thành viên ban thường vụ cấp ủy cấp mình. (7) Cải cách chế độ tiền lương, nhà ở, chống bình quân, cào bằng, đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi; (8) Việc thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, tín nhiệm thấp không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. (9) Việc thực hiện thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu cử ủy viên thường vụ cấp ủy và cấp trưởng lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó. (10) Việc thực hiện thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo, quản lý. (11) Thực hiện quy trình những người được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. (12) Định kỳ tổ chức để nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội;...
2. Một số hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện Nghị quyết:
(1)           Trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn khá phổ biến ở các cấp; còn có biểu hiện chủ quan, làm lướt, nhất là khi đưa việc kiểm điểm đi vào thường xuyên, gắn với kiểm điểm đánh giá chất lượng tổ chức đảng, đảng viên cuối năm. Trên một sổ vấn đề, qua kiểm điểm từ Trung ưong đến cơ sở vẫn chưa làm rõ được thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình; chưa chỉ ra được địa chỉ cụ thể và trách nhiệm của tập thể, cá nhân, như: tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy luân chuyển,...
(2)          - Sau kiểm điểm, một số cấp ủy, tổ chức đảng chậm xây dựng kế hoạch sửa chữa, khắc phục khuyết điểm hoặc xây dựng kế hoạch còn chung chung, chưa gắn việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm của tập thể với các cá nhân. Việc chỉ đạo sửa chữa, khắc phục khuyết điểm ở một số nơi chưa đồng bộ, thiếu kiên quyết; việc xem xét, xử lý đối với một số trường họp vi phạm chưa kịp thời, nghiêm minh. Một số vụ việc nổi cộm, phức tạp, gây bức xúc trong Đảng và trong xã hội, nhưng việc xử lý, giải quyết còn chậm so với yêu cầu.
(3)          - Việc thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu, chưa có những giải pháp mạnh mẽ, toàn diện, quyết liệt, nên hiệu quả chưa cao. Việc tự phát hiện tham nhũng, lãng phí của các địa phưong, cơ quan, đơn vị còn rất hạn chế; cá biệt có trường họp còn bao che cho đối tượng sai phạm; một số trường họp vi phạm xử lý chưa nghiêm, thiếu tính giáo dục, răn đe. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận. Việc thu hồi, xử lý tài sản tham nhũng còn rất ít, chưa đạt yêu cầu.
(4)          - Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn đang tồn tại, chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến dưới những hình thức mới, tinh vi, phức tạp hơn. Một số ít cán bộ, đảng viên bị các phần tử xấu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưỏng, hành động, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước.
(5)          - Việc kê khai tài sản, công khai tài sản, thu nhập của cán bộ còn hình thức và không đúng thực chất. Kết quả kiểm soát, xác minh việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập còn rất hạn chế, chưa phát hiện và xử lý được nhiều trường hợp vi phạm trong việc kê khai tài sản, thu nhập (năm 2012 có 113.436 người kê khai, phát hiện 3 người kê khai không trung thực; năm 2013, có gần 1 triệụ người kê khai, chỉ phát hiện 5 người kê khai không trung thực).
(6)          - Chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưõng cán bộ lãnh đạo, quản lý còn bất cập, chưa kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa nguồn cán bộ quy hoạch của các bộ, ngành Trung ương với các địa phương. Công tác đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có giải pháp cụ thể để khắc phục; tình trạng nể nang, né tránh trách nhiệm hoặc ngại va chạm trong đánh giá cán bộ vẫn còn khá phổ biến. Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn cấp chiến lược; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước.
(7)          - Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế chưa có chuyển biến rõ; tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị còn cồng kềnh chưa họp lý; bộ máy và biên chế của nhiều cơ quan, đơn vị chưa tinh gọn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác còn chồng chéo, trách nhiệm cá nhân không rõ;
việc thi tuyển cán bộ, công chức còn hình thức, chất lưọng thấp, thậm chí còn xảy ra tiêu cực.
3. Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm
3.1-      Nguyên nhân khách quan: Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị gia tăng các hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước ta. Tình hình kinh tế trong nước tuy có bước phục hồi nhưng còn chậm; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, trong khi yêu cầu, nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước ngày càng cao.
3.2-   Nguyên nhân chủ quan:
(1)          - Những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay là những vấn đề quan trọng, khó và đã kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, chưa có những giải pháp đủ mạnh để khắc phục, giải quyết. Một số cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị còn buông lỏng kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết và khắc phục, sửa chữa khuyết điểm.
(2)          - Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí là việc rất hệ trọng, liên quan đến sự tồn vong của Đảng và chế độ, nhưng biện pháp chỉ đạo thực hiện chưa thật mạnh mẽ, quyết liệt. Cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền ở một số địa phưong, cơ quan, đơn vị chưa quyết tâm cao và gương mẫu thực hiện, chưa có giải pháp đủ mạnh để làm chuyển biến tình hình.
(3)          - Trong quá trình thực hiện Nghị quyết, việc tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao năng lực, trình độ của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tích cực, thường xuyên, đồng bộ. Công tác quản lý cán bộ đảng viên còn nhiều sơ hở; việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm của cán bộ, đảng viên từ chi bộ còn yếu. Công tác thông tin, tuyên truyền về thực hiện Nghị quyết có lúc, có nơi chưa đầy đủ, kịp thời, chưa định hướng được dư luận.
    Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên xuất phát từ nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là quan trọng, nguyên nhân quyết định.
PHẦN THỨ 3:  Nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trong thời gian tới:
- Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Trong những năm tới, yêu cầu nhiệm vụ nặng nề cua thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4.
- Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra 10 nhiệm vụ về xây dụng Đảng và xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, trong đó, 2 nhiệm vụ trọng tâm liên quan đến thực hiện 3 vấn đề cấp bách mà Nghị quyết Trung ương 4 đề ra, đó là: (1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tu tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn hiến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dụng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. (2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.


[1] Chủ đề của một số Đại hội gần đây là:
Đại hội VIII: "Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
Đại hội IX: "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" .
Đại hội X: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".
Đại hội XI: "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".
[2] Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011 xuống còn 0,6% vào năm 2015.
[3] Tăng trưởng GDP năm 2013: 5,42%, năm 2014: 5,98% và năm 2015 đạt 6,68%.
[4] Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 2%/năm, từ 14,2% cuối năm 2010 xuống dưới 4,5% năm 2015. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tăng (đến cuối năm 2015, đã có trên 12 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, khoảng 10 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và 75% dân số tham gia bảo hiểm y tế). Tuổi thọ đạt 73,3 tuổi năm 2015.
[5] Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước, quan hệ kinh tế với 224 nước và vùng lãnh thổ; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 10 nước. Việt Nam là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế lớn.
[6] GDP bình quân 5 năm 5,91% (kế hoạch 6,5 - 7,0%); Tỉ trọng đầu tư toàn xã hội so với GDP bình quân 5 năm 31,7% (kế hoạch 33,5 - 35%); Bội chi ngân sách nhà nước vào năm cuối kỳ kế hoạch 5 năm 6,1% (kế hoạch < 4,5%); Nợ của Chính phủ so với GDP đến năm cuối kỳ khoảng 50,3% (kế hoạch không quá 50%); Tỉ trọng sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp 18,37% (kế hoạch 30%); Tỉ lệ đổi mới công nghệ bình quân 5 năm 10,68% (kế hoạch 13%); Tăng năng suất lao động xã hội đến năm cuối kỳ so với cuối kỳ giai đoạn trước 23,6% (kế hoạch 29 - 32%); Số lao động được tạo việc làm 5 năm là 7,8 triệu (kế hoạch là 8 triệu); Tỉ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế vào năm cuối kỳ là 51,6% (kế hoạch 55%); Tỉ lệ che phủ rừng vào năm cuối kỳ là 40,73% (kế hoạch 42 - 43%).
[7] Đến năm 2020, dự kiến có 10/15 chỉ tiêu không đạt tiêu chí các nước công nghiệp: GDP bình quân đầu người đạt 3.200 - 3.500 USD theo giá thực tế (theo tiêu chí nước công nghiệp là trên 5.000 USD, giá năm 2010); Tỉ trọng công nghiệp chế tạo trong GDP đạt 15% (theo tiêu chí: trên 20%); Tỉ trọng nông nghiệp trong GDP dự kiến đạt 15% (theo tiêu chí: dưới 10%); Tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 40% (theo tiêu chí: 20-30%); Tỉ lệ đô thị hoá đạt 38 - 40% (theo tiêu chí: trên 50%); Điện sản xuất bình quân đầu người đạt 2.800 KWh/người (theo tiêu chí: trên: 3.000 KWh/người); Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt 0,67 (theo tiêu chí: trên 0,7); Chỉ số bất bình đẳng thu nhập (Gini) khoảng 0,38 - 0,4 (theo tiêu chí: 0,32 - 0,38); Tỉ lệ lao động qua đào tạo (có bằng cấp, chứng chỉ) trong tổng lao động xã hội đạt 25% (theo tiêu chí: trên 55%); Tỉ lệ dân số sử dụng nước sạch dưới 92% (theo tiêu chí: 100%).
[8] Nợ công tăng nhanh, nợ công năm 2015 là 62,2%. Quy mô nợ công tăng nhanh trong 5 năm, bình quân là 18,4%/năm. Nợ Chính phủ đã vượt giới hạn quy định (50,3% GDP so với quy định là không quá 50%). Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nợ xấu ở thời điểm 30-9-2011 khoảng 17,21% tổng dư nợ; đến tháng 12-2015, nợ xấu còn 2,55%; nếu tính cả số nợ xấu bán cho Công ty quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) thì tổng nợ xấu còn khoảng 6,06% tổng dư nợ tín dụng.
[9] Tăng trưởng GDP bình quân đạt 5,9%/năm, thấp hơn 5 năm trước và chưa đạt chỉ tiêu đề ra.
[10] Năm năm qua, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng khoảng 29%; năng suất lao động tăng bình quân 4,2%/năm. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số xếp hạng toàn cầu về năng lực cạnh tranh (GCI) của Việt Nam năm 2015 xếp thứ 56/140 quốc gia.
[11] Theo số liệu báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, đến cuối năm 2015 nợ xấu còn 2,55%. Nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn; nợ chính phủ vượt quá giới hạn quy định (50,3% GDP so với quy định không quá 50%).
[12] Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước chưa đáp yêu cầu, tỉ lệ vốn được cổ phần hoá còn thấp; hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với tài sản và nguồn lực được giao; việc thoái vốn của những hoạt động ngoài ngành chính trong doanh nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khăn.
[13] (l) Xoá nghèo dưới mọi hình thức và ở mọi nơi; (2) Xoá đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững; (3) Bảo đảm sức khoẻ và sống khoẻ mạnh cho mọi người; (4) Bảo đảm chất lượng giáo dục, công bằng, toàn diện và cơ hội học tập suốt đời cho mọi người; (5) Bảo đảm bình đẳng giới; (6) Bảo đảm nước sạch và vệ sinh cho mọi người; (7) Bảo đảm mọi người được sử dụng năng lượng sạch và phù hợp với khả năng chi trả; (8) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và việc làm phù hợp cho mọi người; (9) Xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy phát triển công nghiệp bền vững và khuyến khích đổi mới sáng tạo, (l0) Giảm bất bình đẳng trong mỗi quốc gia và giữa các quốc gia; (l1) Xây dựng các đô thị và cộng đồng dân cư đồng bộ, an toàn, bền vững và thân thiện; (12) Sản xuất, tiêu dùng có trách nhiệm và bền vững; (13) Ứng phó và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu; (14) Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và tài nguyên biển; (15) Quản lý rừng bền vững, chống sa mạc hoá ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái tài nguyên đất, bảo tồn đa dạng sinh học; (16) Thúc đẩy hoà bình, công lý, tăng cường thể chế quốc gia và toàn cầu, (17) Đổi mới và nâng cao hiệu quả quan hệ đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững.
[14]  Trong 5 năm tới, tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo hướng: Tập trung cổ phần hoá, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, bán theo cơ chế thị trường phần vốn Nhà nước ở những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ; sử dụng một phần số tiền thu được cho đầu tư phát triển; thực hiện quy định về phá sản doanh nghiệp.
[15] Quản lý phát triển xã hội hướng vào các nhiệm vụ cốt lõi: (1) Phát triển hài hoà cơ cấu xã hội (cơ cấu các giai tầng xã hội; cơ cấu dân số, dân cư, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,...); (2) Định hướng, kiểm soát các biến đổi xã hội (phân tầng xã hội, di động xã hội,...); (3) Thực hiện các bảo đảm xã hội (an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, hoà nhập và tái hoà nhập xã hội,...); (4) Thực thi chính sách xã hội phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực, địa bàn,... nhằm hài hoà quan hệ xã hội, quan hệ lợi ích; (5) Xử lý các vấn đề xã hội nảy sinh (bất bình đẳng xã hội, rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội,...), bảo đảm sự đồng thuận xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người.
[16] Phát triển nền kinh tế xanh là phát triển nền kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái sinh, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong phát triển kinh tế, hạn chế tối đa và khắc phục việc gây ô nhiễm môi trường bằng việc sử dụng các công nghệ sạch trong sản xuất kinh doanh, sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thân thiện với môi trường Phát triển nền kinh tế xanh còn bao gồm nội dung xây dựng "lối sống xanh" hay "xanh hoá lối sống" và thúc đẩy tiêu dùng bền vững, thân thiện với môi trường. Liên hợp quốc cũng đã phát động "Chiến dịch kinh tế xanh" nhằm nâng cao ý thức của con người đối với môi trường.
[17]  Khái niệm biến đổi khí hậu trái đất được hiểu là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và do con người gây ra trong một giai đoạn nhất định. Sự biến đổi khí hậu có thể giới hạn trong một vùng nhất định, cũng có thể xuất hiện trên toàn địa cầu. Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu thường được gọi chung bằng hiện tượng nóng lên toàn cầu. Trong các nhân tố về những tác động do con người gây ra biến đổi khí hậu, nguyên nhân hàng đầu là sự gia tăng của lượng khí CO2 do việc đốt các nhiên liệu có nguồn gốc hoá thạch. Các yếu tố khác như việc sử dụng đất, lỗ thủng tầng ôzôn, sản xuất nông nghiệp và nạn phá rừng cũng đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu.
[18] Nhận thức đúng đắn mối quan hệ chặt chẽ giữa kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm kinh tế, văn hoá, xã hội phát triển nhanh và bền vững; quốc phòng, an ninh được tăng cường vững chắc. Sự kết hợp đó được thể hiện ở từng cơ sở, chủ động gắn kết giữa xây dựng với bảo vệ thường xuyên ở mọi lúc, mọi nơi, kết hợp theo khu vực, vùng lãnh thổ, ngành, lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội cũng như trên phạm vi toàn quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
[19] Thế trận quốc phòng toàn dân là thế bố trí các lực lượng quốc phòng trên toàn lãnh thổ đất nước, thế trận toàn dân giữ nước, nhằm phát huy cao độ sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời là thế trận để phòng ngừa, ngăn chặn chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù.
Thế trận an ninh nhân dân là việc tổ chức, bố trí lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia và các nguồn lực cần thiết để chủ động bảo vệ an ninh quốc gia. Thế trận an ninh nhân dân chính là thế bố trí lực lượng, phương tiện trên cơ sở huy động sức mạnh tổng hợp về vật chất và tinh thần của toàn dân, sự tham gia của các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt, nhằm bảo vệ vững chắc an ninh của đất nước, trật tự, an toàn xã hội.
[20] Cả đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân.
[21] Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là quá trình chủ động, tích cực tuân thủ, chấp nhận, áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Chuẩn mực và luật lệ quốc tế là các quy tắc, luật lệ và tiêu chuẩn chung được các bên tham gia chấp nhận. Nhà nước lựa chọn các luật lệ và chuẩn mực phù hợp với mục tiêu và khả năng của đất nước trong từng giai đoạn phát triển để áp dụng theo các nguyên tắc và lộ trình phù hợp.

Tác giả bài viết: Anh Tuấn

 Từ khóa: nội dung, báo cáo

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Hai bên
Hai bên
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây