Kinh tế - xã hội nước ta năm 2019 diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng chậm lại[1]. Căng thẳng thương mại giữa Mỹ - Trung và vấn đề địa chính trị càng làm gia tăng đáng kể tính bất ổn của hệ thống thương mại toàn cầu, gây ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin kinh doanh, quyết định đầu tư và thương mại toàn cầu[2]. Sự biến động khó lường trên thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế, giá dầu diễn biến phức tạp tác động đến tăng trưởng tín dụng, tâm lý và kỳ vọng thị trường. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tăng trưởng tích cực trong năm 2018, kinh tế vĩ mô ổn định nhưng cũng phải đối mặt không ít khó khăn, thách thức với thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng; ngành chăn nuôi gặp khó khăn với dịch tả lợn châu Phi diễn ra tại tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tăng trưởng chậm lại của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; giải ngân vốn đầu tư công không đạt kế hoạch.
Xác định năm 2019 là năm “bứt phá” phấn đấu thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 với phương châm hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”, ngày 01/01/2019 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 và Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021. Ngày 01/4/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 09/CT-TTg về các giải pháp tập trung tháo gỡ cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng 6 tháng và cả năm 2019. Đồng thời, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thường xuyên chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục cắt giảm thực chất điều kiện kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi cho thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức nhiều Hội nghị chuyên đề để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất của các ngành, các địa phương; đẩy mạnh triển khai thực hiện các hiệp định thương mại nhằm tìm kiếm thị trường, thúc đẩy sản xuất trong nước, nỗ lực phấn đấu cao nhất để hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra. Nhờ đó, tình hình kinh tế - xã hội quý IV và cả năm 2019 tiếp tục chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết quả nổi bật như sau:
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV/2019 ước tính tăng 6,97% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,62%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,92% và khu vực dịch vụ tăng 8,09%. Trên góc độ sử dụng GDP quý IV/2019, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,29% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 8,28%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 5,05%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 6,71%.
GDP năm 2019 đạt kết quả ấn tượng với tốc độ tăng 7,02% (Quý I tăng 6,82%, quý II tăng 6,73%; quý III tăng 7,48%[3]; quý IV tăng 6,97%), vượt mục tiêu của Quốc hội đề ra từ 6,6%-6,8%, khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của các giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp cùng nỗ lực thực hiện để đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng. Mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức tăng 7,08% của năm 2018 nhưng cao hơn mức tăng của các năm 2011-2017[4]. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,01%, đóng góp 4,6% vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,90%, đóng góp 50,4%; khu vực dịch vụ tăng 7,3%, đóng góp 45%.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp năm 2019 duy trì mức tăng trưởng cao với 8,86%, đóng góp 2,91 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt nền kinh tế tăng trưởng với mức tăng 11,29%, đóng góp 2,33 điểm phần trăm. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng nhẹ ở mức 1,29% sau 3 năm sụt giảm liên tiếp, đóng góp 0,09 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành xây dựng duy trì đà tăng trưởng tích cực với tốc độ 9,1%, đóng góp 0,66 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Khu vực dịch vụ năm 2019 tăng 7,3%, chỉ thấp hơn mức tăng 7,47% của năm 2011 và 7,44% của năm 2017 trong giai đoạn 2011-2019[5]. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm năm 2019 như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,82% so với năm 2018, là ngành có tốc độ tăng trưởng cao thứ hai trong khu vực dịch vụ nhưng đóng góp lớn nhất vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế (0,96 điểm phần trăm); hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,62%, đóng góp 0,56 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 9,12%, đóng góp 0,3 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 6,71%, đóng góp 0,28 điểm phần trăm.
Riêng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2019 đạt mức tăng trưởng thấp do hạn hán, biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng cây trồng, ngành chăn nuôi chịu thiệt hại nặng nề bởi dịch tả lợn châu Phi, nông sản gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ và giá xuất khẩu. Tăng trưởng của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2019 đạt 2,01%, chỉ cao hơn mức tăng 1,36% của năm 2016 trong giai đoạn 2011-2019[6]. Ngành nông nghiệp đạt mức tăng thấp 0,61%, là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2019[7], đóng góp 0,07 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 4,98% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,04 điểm phần trăm. Điểm sáng của khu vực này là ngành thủy sản tăng trưởng khá ở mức 6,3%, đóng góp 0,21 điểm phần trăm do sản lượng nuôi trồng và khai thác đạt khá.
Về cơ cấu kinh tế năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,96% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,49%; khu vực dịch vụ chiếm 41,64%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,91% (Cơ cấu tương ứng của năm 2018 là: 14,68%; 34,23%; 41,12%; 9,97%).
Trên góc độ sử dụng GDP năm 2019, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,23% so với năm 2018; tích lũy tài sản tăng 7,91%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 6,71%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 8,35%.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện: Năm 2019, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP đạt 46,11%, bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 44,46%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,58% của giai đoạn 2011-2015. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2019 ước tính đạt 110,4 triệu đồng/lao động (tương đương 4.791 USD/lao động, tăng 272 USD so với năm 2018[8]); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 6,2% do lực lượng lao động được bổ sung và số lao động có việc làm năm 2019 tăng cao.
Hiệu quả đầu tư được cải thiện với nhiều năng lực sản xuất mới bổ sung cho nền kinh tế. Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (Hệ số ICOR) giảm từ mức 6,42 năm 2016 xuống 6,11 năm 2017; 5,97 năm 2018; năm 2019 ước tính đạt 6,07. Bình quân giai đoạn 2016-2019 hệ số ICOR đạt 6,14, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011-2015.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Dân số, lao động và việc làm
Dân số trung bình của Việt Nam năm 2019 là 96,48 triệu người, trong đó tỷ trọng dân số sống ở khu vực thành thị tiếp tục xu hướng tăng lên. Chất lượng dân số được cải thiện, tuổi thọ trung bình tăng, tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong mẹ và trẻ em giảm mạnh. Tình hình lao động, việc làm năm 2019 của cả nước có sự chuyển biến tích cực, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm giảm, số người có việc làm tăng, thu nhập của người lao động làm công hưởng lương có xu hướng tăng. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm nhanh, lao động trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số lao động của nền kinh tế.
Dân số trung bình năm 2019[31] của cả nước ước tính 96,48 triệu người, tăng 1.098,8 nghìn người, tương đương tăng 1,15% so với năm 2018. Tốc độ tăng dân số bình quân giai đoạn 2016-2019 là 1,13%. Trong tổng dân số, dân số thành thị 33,46 triệu người, chiếm 34,7%; dân số nông thôn 63,02 triệu người, chiếm 65,3%; dân số nam 48,02 triệu người, chiếm 49,8%; dân số nữ 48,46 triệu người, chiếm 50,2%. Tỷ số giới tính của dân số năm 2019 là 99,1 nam/100 nữ.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, tổng tỷ suất sinh năm 2019 đạt 2,09 con/phụ nữ và ở dưới mức sinh thay thế. Tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh là 111,5 bé trai/100 bé gái; tỷ suất sinh thô là 16,3‰; tỷ suất chết thô là 6,3‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi (số trẻ em dưới 1 tuổi tử vong/1.000 trẻ sinh ra sống) là 14‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 21‰. Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2019 là 73,6 năm, trong đó nam là 71 năm và nữ là 76,3 năm.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý IV/2019 ước tính là 56,1 triệu người, tăng 472,2 nghìn người so với quý trước và tăng 501,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lao động nam 29,1 triệu người, chiếm 51,9% tổng số và lao động nữ 27 triệu người, chiếm 48,1%. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên khu vực thành thị là 18,9 triệu người, chiếm 33,6%; khu vực nông thôn là 37,2 triệu người, chiếm 66,4%. Tính chung cả năm 2019, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 55,8 triệu người, tăng 417,1 nghìn người so với năm 2018. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2019 ước tính đạt 76,5%, giảm 0,3 điểm phần trăm so với năm trước.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động quý IV/2019 ước tính là 49,4 triệu người, tăng 278,7 nghìn người so với quý trước và tăng 442,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lao động nam 26,8 triệu người, chiếm 54,2% tổng số và lao động nữ 22,6 triệu người, chiếm 45,8%; lao động khu vực thành thị là 17,4 triệu người, chiếm 35,3% và khu vực nông thôn là 32 triệu người, chiếm 64,7%. Tính chung cả năm 2019, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 49,1 triệu người, tăng 527,7 nghìn người so với năm trước.
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc quý IV/2019 ước tính 55 triệu người, bao gồm 18,6 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 33,8% tổng số; khu vực công nghiệp và xây dựng 16,4 triệu người, chiếm 29,9%; khu vực dịch vụ 20 triệu người, chiếm 36,3%. Tính chung cả năm 2019, lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc là 54,7 triệu người, bao gồm 19 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 34,7% tổng số (giảm 3 điểm phần trăm so với năm trước); khu vực công nghiệp và xây dựng 16,1 triệu người, chiếm 29,4% (tăng 2,7 điểm phần trăm); khu vực dịch vụ 19,6 triệu người, chiếm 35,9% (tăng 0,3 điểm phần trăm).
Tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước quý IV/2019 ước tính là 1,98% (quý I là 2,00%; quý II là 1,98%; quý III là 1,99%). Tính chung năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp chung ước tính là 1,98%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,93%; khu vực nông thôn là 1,51%[32]. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý IV là 2,15% (quý I là 2,17%; quý II là 2,16%; quý III là 2,17%). Tính chung cả năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ước tính là 2,16%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,10%; khu vực nông thôn là 1,65%[33]. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) năm 2019 ước tính là 6,39%, trong đó khu vực thành thị là 10,24%; khu vực nông thôn là 4,83%.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I/2019 là 1,21%; quý II và quý III cùng là 1,38%; quý IV ước tính là 1,07%. Tính chung năm 2019, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là 1,26%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 0,67%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 1,57% (tỷ lệ thiếu việc làm của năm 2018 tương ứng là 1,40%; 0,65%; 1,78%).
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản[34]quý I/2019 là 54,7% và quý II là 54%; quý III và quý IV là 54,7%. Tính chung năm 2019, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản ước tính là 54,6%. Tỷ lệ này tính riêng trong khu vực thành thị năm 2019 là 46,3% và trong khu vực nông thôn là 61,7% (năm 2018 tương ứng là 56,2%; 48,1%; 62,9%).
Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương quý IV/2019 là 6,8 triệu đồng/tháng, tăng 134 nghìn đồng so với quý trước và tăng 819 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2019, thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương là 6,7 triệu đồng/tháng, trong đó thu nhập của lao động nam là 7,1 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 6,3 triệu đồng/tháng, lao động thành thị là 7,8 triệu đồng/tháng, lao động nông thôn là 5,9 triệu đồng/tháng.
Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương năm 2019 của nhóm “Nhà lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị” là 11,4 triệu đồng/tháng, tăng 1,7 triệu đồng so với năm trước; nhóm “Nhà chuyên môn kỹ thuật bậc cao” là 9,2 triệu đồng/tháng, tăng 1 triệu đồng; nhóm “Lao động giản đơn” là 4,8 triệu đồng/tháng, tăng 717 nghìn đồng.
Thu nhập bình quân tháng từ công việc làm công hưởng lương năm 2019 của lao động có trình độ trên đại học trở lên là 9,3 triệu đồng/tháng, tăng 1,06 triệu đồng so với năm trước; lao động có trình độ sơ cấp là 7,7 triệu đồng/tháng, tăng 1,08 triệu đồng; lao động chưa học xong tiểu học là 5 triệu đồng/tháng; lao động chưa từng đi học là 4,2 triệu đồng/tháng.
2. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Đời sống dân cư cả nước tiếp tục được cải thiện. Ước tính thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2019 theo giá hiện hành đạt khoảng 4,2 triệu đồng, cao hơn mức 3,9 triệu đồng của năm 2018. Thiếu đói trong nông dân giảm mạnh trong những tháng gần đây. Trong năm 2019, cả nước có 68,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 34,7% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 278 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 33,8%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 3,9 nghìn tấn lương thực. Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều năm 2019 ước khoảng 5,7%, giảm 1,1 điểm phần trăm so với năm 2018.
Chương trình xây dựng nông thôn mới trong những năm qua có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống nhân dân khu vực nông thôn, đẩy mạnh phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn. Hệ thống cơ sở vật chất văn hóa, trường học được đầu tư xây dựng mới, cải tạo đạt chuẩn, các chương trình hỗ trợ giống cây trồng cho sản xuất nông nghiệp, chính sách cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, cận nghèo… giúp người nông dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Tính đến cuối tháng 12/2019, cả nước có 4.806 xã (đạt 53,92%) và 111 huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, vượt 3,92% so với mục tiêu giai đoạn 2010-2020.
Công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Theo báo cáo sơ bộ, tổng các suất quà trao tặng cho các đối tượng chính sách, người có công, các đối tượng bảo trợ xã hội trong năm 2019 hơn 5,5 nghìn tỷ đồng, bao gồm 3,4 nghìn tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1,3 nghìn tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và gần 0,8 nghìn tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. Bên cạnh đó, đã có gần 24 triệu thẻ bảo hiểm y tế, sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát tặng cho các đối tượng chính sách trên địa bàn cả nước.
3. Giáo dục, đào tạo
Năm học 2019-2020, ngành giáo dục đào tạo tiếp tục rà soát, quy hoạch mạng lưới trường, lớp giáo dục trung học theo hướng hợp lý và hiệu quả; tăng cường nền nếp, kỷ cương trong các cơ sở giáo dục; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới. Trong năm học này, cả nước có 5 triệu trẻ em bậc mầm non (0,7 triệu trẻ em đi nhà trẻ và 4,3 triệu trẻ em đi học mẫu giáo); 17 triệu học sinh phổ thông đến trường (8,7 triệu học sinh tiểu học; 5,7 triệu học sinh trung học cơ sở; 2,6 triệu học sinh trung học phổ thông) và 1,5 triệu sinh viên đại học, cao đẳng, trung cấp[35].
Giáo dục nghề nghiệp năm 2019 đã có những chuyển biến tích cực, chất lượng nguồn nhân lực tiếp tục được nâng cao; gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện nay, cả nước có 1.913 cơ sở giáo dục nghề nghiệp[36], bao gồm 402 trường cao đẳng; 472 trường trung cấp và 1.039 trung tâm giáo dục nghề nghiệp. Đào tạo nghề năm 2019 đã tuyển mới được 2.338 nghìn người, trong đó trình độ cao đẳng, trung cấp tuyển sinh được 568 nghìn người; trình độ sơ cấp và chương trình đào tạo nghề khác tuyển sinh được 1.770 nghìn người, trong đó hỗ trợ đào tạo nghề cho 800 nghìn lao động nông thôn. Năm 2019, số học sinh tốt nghiệp các lớp đào tạo nghề là 2.195 nghìn người, trong đó trình độ cao đẳng và trung cấp là 495 nghìn người, trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo khác là 1.700 nghìn người.
4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng (từ 19/11-18/12/2019), cả nước có 43,4 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (4 trường hợp tử vong); 14,1 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 25 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (1 trường hợp tử vong); 1 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu. Tính chung năm 2019, cả nước có 320,7 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, gấp 2,5 lần số trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết trong năm 2018 (53 trường hợp tử vong); 103,9 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (1 trường hợp tử vong); 578 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (14 trường hợp tử vong); 27 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (1 trường hợp tử vong); 41,8 nghìn trường hợp sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 8,2 nghìn trường hợp mắc sởi dương tính (3 trường hợp tử vong). Đáng lưu ý là số trường hợp mắc bệnh cúm tăng cao trong những tháng cuối năm, chủ yếu tập trung ở các tỉnh phía Bắc. Tính đến 18/12/2019 đã có 409,8 nghìn trường hợp mắc bệnh cúm (10 trường hợp tử vong).
Đến thời điểm 18/12/2019, tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống là 210,1 nghìn người và số trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 97 nghìn người; số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 98,51 nghìn người.
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Mười Hai xảy ra 2 vụ với 42 người bị ngộ độc. Tính chung cả năm 2019, trên địa bàn cả nước xảy ra 65 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 1.765 người bị ngộ độc, trong đó 9 người tử vong.
5. Hoạt động văn hóa và thể dục thể thao
Hoạt động văn hóa năm 2019 tập trung chào mừng các ngày Lễ lớn, các sự kiện trọng đại của đất nước và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Các chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp, văn nghệ quần chúng, trò chơi dân gian được tổ chức rộng khắp từ Trung ương đến địa phương với nội dung phong phú, giàu bản sắc văn hoá dân tộc. Nhiều sự kiện được tổ chức với quy mô lớn và nhận được sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân, góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của đất nước, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của người dân. Bảo tồn, tôn vinh và phát huy giá trị di sản văn hóa vẫn tiếp tục được các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và nhân dân quan tâm thực hiện.
Thể thao thành tích của Việt Nam năm 2019 đã đạt nhiều kết quả nổi bật. Đoàn thể thao Việt Nam đã giành được 1.483 huy chương trong các giải đấu quốc tế, trong đó 587 huy chương vàng, 428 huy chương bạc, 468 huy chương đồng. Tại SEA Games 30, đoàn thể thao Việt Nam đã giành được 98 huy chương vàng, 85 huy chương bạc, 105 huy chương đồng, xếp vị trí thứ 2/11 quốc gia tham dự, đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử đội tuyển bóng đá nam vô địch SEA Games và đội tuyển bóng đá nữ lần thứ 6 vô địch.
6. Tai nạn giao thông
Trong tháng Mười Hai (từ 15/11 đến 14/12), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1.768 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 838 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 930 vụ va chạm giao thông, làm 656 người chết; 505 người bị thương và 977 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng 12/2019 tăng 25,2% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 9,3% và số vụ va chạm giao thông tăng 44,2%); số người chết tăng 4,1%; số người bị thương tăng 36,2% và số người bị thương nhẹ tăng 46,9%.
Trong năm 2019 trên địa bàn cả nước đã xảy ra 17.626 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 9.229 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 8.397 vụ va chạm giao thông, làm 7.624 người chết; 13.624 người bị thương và 8.528 người bị thương nhẹ. So với năm trước, năm 2019 tai nạn giao thông giảm trên cả ba tiêu chí: số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương. Số vụ tai nạn giao thông năm 2019 giảm 5,1% so với năm trước (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 4%; số vụ va chạm giao thông giảm 6,1%); số người chết giảm 7,1%; số người bị thương giảm 6,4% và số người bị thương nhẹ giảm 8,2%. Trong tổng số 9.229 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên có 9.021 vụ (chiếm 97,7%) xảy ra trên đường bộ, làm 7.458 người chết và 5.054 người bị thương. Bình quân 1 ngày trong năm 2019, trên địa bàn cả nước xảy ra 48 vụ tai nạn giao thông (giảm 2 vụ so với năm 2018), gồm 25 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 23 vụ va chạm giao thông, làm 21 người chết, 37 người bị thương và 23 người bị thương nhẹ.
7. Thiệt hại do thiên tai
Thiên tai xảy ra trong năm chủ yếu là mưa lớn, lũ quét, ngập lụt, triều cường và sạt lở đất. Thiệt hại do thiên tai năm 2019 giảm nhiều so với năm trước. Thiên tai xảy ra trong năm đã làm 132 người chết, mất tích và 207 người bị thương[37]; hơn 98,1 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng, giảm 37,7%; 1,7 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi, giảm 13,6% và hơn 68,5 nghìn ngôi nhà sạt lở, tốc mái, ngập nước, giảm 42,5%. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai năm 2019 ước tính 6,2 nghìn tỷ đồng, giảm 60,6% so với năm 2018. Các địa phương bị thiệt hại nhiều do thiên tai trong năm 2019 là Thanh Hóa với 21 người chết và mất tích, 7 người bị thương, 3,9 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng, 14,5 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng, thiệt hại ước tính hơn 1,4 nghìn tỷ đồng; Hà Giang 11 người chết, 24 người bị thương, 5,6 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng, 1,1 nghìn ha lúa, hoa màu bị hư hỏng, thiệt hại ước tính 53,5 tỷ đồng; Hà Tĩnh 7 người chết, mất tích, 7 người bị thương, 6,3 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng, 9,8 nghìn ha lúa, hoa màu bị hư hỏng, thiệt hại ước tính 756,4 tỷ đồng.
8. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong tháng 12/2019, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.118 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 1.025 vụ với tổng số tiền phạt hơn 22 tỷ đồng. Cả năm 2019, đã phát hiện 12.399 vụ vi phạm môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 11.236 vụ với tổng số tiền phạt hơn 134 tỷ đồng.
Trong tháng Mười Hai, cả nước xảy ra 307 vụ cháy, nổ, làm 20 người chết và 14 người bị thương, thiệt hại ước tính gần 258 tỷ đồng. Cả năm 2019, trên địa bàn cả nước xảy ra 3.755 vụ cháy, nổ, làm 112 người chết và 177 người bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 1,4 nghìn tỷ đồng.
Khái quát lại, trong bối cảnh tình hình thế giới năm qua biến động phức tạp, kinh tế và thương mại toàn cầu suy giảm, bức tranh kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2019 đã đạt được những kết quả tích cực trên các lĩnh vực nhờ sự nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước. Nền kinh tế duy trì đà tăng trưởng cao, tăng trưởng GDP năm 2019 ước tính đạt 7,02%, vượt mục tiêu đề ra, quy mô được mở rộng với chất lượng ngày càng được cải thiện. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. Cung cầu hàng hóa trong nước bảo đảm, tiêu dùng tăng cao, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng cao nhất giai đoạn 2016-2019. Công nghiệp chế biến, chế tạo và các ngành dịch vụ thị trường tiếp tục giữ vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa xác lập kỷ lục mới, vượt mức 500 tỷ USD với giá trị xuất siêu lớn nhất từ trước đến nay. Ngành du lịch tạo dấu ấn với lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 18 triệu lượt người. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, thu hút nhiều doanh nghiệp thành lập mới và đầu tư nước ngoài. Chất lượng dân số ngày một nâng lên, tuổi thọ trung bình tăng cao, tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong mẹ và trẻ em giảm mạnh. Số người có việc làm tăng, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm dần, thu nhập của người dân cải thiện, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế vẫn còn những tồn tại, thách thức: Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, mọi biến động của thế giới cũng tác động đến nền kinh tế trong nước, trong khi khả năng chống chịu trước những biến động của bên ngoài còn hạn chế. Năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Còn tồn tại một số rào cản, hạn chế về thể chế kinh tế gây ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế trong từng ngành, từng lĩnh vực. Năng lực của khu vực doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế. Biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ, dịch bệnh diễn biến phức tạp có thể ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.
Bước sang năm 2020, kinh tế Việt Nam cần nhận diện những cơ hội cũng như những thách thức để có bước đi đúng trong tiến trình “về đích” của giai đoạn 2016-2020. Bên cạnh dự báo nền kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng chậm trong năm 2020, các yếu tố rủi ro thách thức gia tăng, thương mại và chuỗi cung ứng bị gián đoạn, diễn biến khó lường của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung…, một số vấn đề nội tại của nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để sẽ là lực cản đối với phát triển kinh tế nước ta. Để có thể hoàn thành các mục tiêu kế hoạch không chỉ của năm 2020 mà của cả giai đoạn 2016-2020 theo Nghị quyết Đại hội Đảng XII đã đề ra, Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương cần tháo gỡ các nút thắt, phát huy tối đa mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, trong đó tập trung vào 6 nhóm động lực có tính nền tảng cho tăng trưởng kinh tế năm 2020 và các năm tiếp theo với các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh an toàn, ít rủi ro, cho phép các doanh nghiệp tiếp cận cơ hội và nguồn lực, phát huy quyền sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình, tạo lập môi trường cho người dân tự vươn lên, phát huy sức sáng tạo. Chính phủ và các địa phương cần tập trung rà soát, bổ sung và hoàn thiện thể chế, cắt giảm thực chất điều kiện kinh doanh đang là rào cản đối với hoạt động của doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh cá thể; đẩy mạnh cải cách hành chính, thực thi hiệu quả thủ tục một cửa, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp thành lập và phát triển gắn với thực hiện Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp. Cần có chính sách và giải pháp phù hợp để khuyến khích các cơ sở kinh doanh các thể chuyển thành doanh nghiệp, tạo dựng điều kiện kinh doanh thuận lợi cho cơ sở cá thể hoạt động ổn định lâu dài và tuân thủ pháp luật.
Hai là, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư của nền kinh tế. Tập trung thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân nhiều hơn, mặt khác hoạt động đầu tư phải có trọng tâm, trọng điểm vào những ngành, lĩnh vực mang lại hiệu quả kinh tế cao, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí. Hiệu quả đầu tư sẽ tăng lên đáng kể khi cơ cấu đầu tư tập trung vào một số ngành trọng điểm như thông tin và truyền thông; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ do những ngành này có hiệu suất đầu tư tốt, mang lại giá trị gia tăng cao hơn các nhóm ngành khác. Đồng thời chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng để nâng cao năng lực sản xuất, cạnh tranh của nền kinh tế.
Ba là, nâng cao năng suất lao động. Hiện nay trong nền kinh tế vẫn còn tới 19 triệu lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, do đó trong năm 2020, cần khuyến khích và có giải pháp thu hút doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn để nâng cao năng suất lao động của khu vực nông nghiệp, đồng thời chuyển nhanh lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Cùng với chuyển dịch cơ cấu lao động, cần thực hiện các chính sách và giải pháp nhằm tăng năng suất nội ngành. Trong đó tập trung cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, nhất là công nghệ sinh học, phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Tập trung phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn, sử dụng công nghệ cao, tự động hóa. Chuyển dịch trong nội bộ ngành công nghiệp từ sản xuất dựa vào lao động sang dựa vào công nghệ, hàng hóa có giá trị gia tăng cao, trong năm 2020 Việt Nam cần tập trung phát triển và nâng cao năng suất lao động của ngành sản xuất, chế biến thực phẩm; ngành dệt, sợi và may; ngành sản xuất kim loại và các sản phẩm từ kim loại; sản xuất máy móc, thiết bị. Tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý Nhà nước và quản trị doanh nghiệp.
Bốn là, tăng khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước. Trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam năm 2020 sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhưng với quy mô dân số trên 96 triệu dân và số lượng khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng cao sẽ là thị trường tiềm năng tạo động lực cho khu vực sản xuất, dịch vụ và tăng trưởng năm 2020. Quan tâm khai thác đúng mức, thúc đẩy thị trường trong nước phát triển, đáp ứng nội nhu của nền kinh tế, có chính sách dần đưa hàng hóa Việt Nam thay thế hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Xúc tiến thương mại trên thị trường nội địa, nâng cao tính phù hợp và tiện ích của hệ thống bán lẻ, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Thực hiện hiệu quả chương trình “Hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam”. Đồng thời, thúc đẩy hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch để thu hút du khách. Tăng cường thúc đẩy liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch; kết hợp giữa các doanh nghiệp vận tải với các cơ sở lưu trú, ăn uống. Phát triển du lịch tại các vùng có thế mạnh với các hình thức đa dạng và hấp dẫn.
Năm là, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cần bãi bỏ, đơn giản hóa các quy định về điều kiện kinh doanh nhằm thích ứng với cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, tăng nhanh số lượng doanh nghiệp mới thành lập; giảm chi phí đầu vào, chi phí cơ hội, chi phí không chính thức cho doanh nghiệp và người dân; đưa môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh nước ta thuộc nhóm ASEAN 4. Đẩy mạnh thanh toán điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4.
Sáu là, đô thị hóa là quá trình tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Đô thị hóa vừa là mục tiêu phát triển vừa là động lực trong thúc đẩy các ngành sản xuất hàng hóa tiêu dùng. Với 34,7% cư dân thành thị, trung bình mỗi người dân khu vực này chi tiêu cho đời sống cao hơn so với khu vực nông thôn là động lực để các ngành sản xuất hàng hóa tiêu dùng phát triển. Cần thúc đẩy sự phát triển của các đô thị để tạo ra những cụm liên kết giữa sản xuất với phục vụ đời sống dân cư; thiết lập hệ thống hạ tầng hiện đại để giúp các doanh nghiệp cắt giảm chi phí thương mại, vận chuyển nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế; các ngành nghề gắn với phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Lực lượng lao động ở khu vực đô thị dồi dào hơn và có chất lượng hơn so với khu vực nông thôn, đây là yếu tố quan trọng cho quá trình đô thị hóa nhằm đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trẻ, chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế tại các đô thị. Việt Nam cần có những chính sách đào tạo nâng cao kỹ năng chuyên môn và kỹ năng sống để thích ứng với môi trường sống đầy thách thức ở các đô thị, cũng như tạo việc làm cho lực lượng lao động trẻ này. Bên cạnh đó, phát triển đô thị phải gắn với đảm bảo hạ tầng giao thông và bảo vệ môi trường và là động lực để kéo theo sự phát triển của nông thôn./.
|
|